Tạo bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính thuế

NGUYỄN THỊ CÚC - Chủ tịch Hội Tư vấn Thuế Việt Nam

(Tài chính) Nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho người nộp thuế và doanh nghiệp, các giải pháp tạo bước đột phá mới trong cải cách hành chính thuế của ngành Thuế có ý nghĩa hết sức quan trọng. Theo đó, ngành Thuế đã và đang quyết liệt cải cách quy trình, hồ sơ và thủ tục nộp thuế và rút ngắn thời gian cho người nộp thuế… hướng tới đạt mức 171 giờ vào năm 2015.

Hoạt động nghiệp vụ tại Cục Thuế Hà Nội. Nguồn: internet
Hoạt động nghiệp vụ tại Cục Thuế Hà Nội. Nguồn: internet
Nỗ lực cải cách thủ tục hành chính thuế

Không thể phủ nhận sự nỗ lực, quyết tâm đổi mới cải cách hệ thống chính sách thuế, cũng như thủ tục hành chính (TTHC) thuế của Lãnh đạo Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế trong thời gian qua. Cụ thể, các gói giải pháp tháo gỡ khó khăn về thuế như: chính sách miễn giảm, gia hạn thuế; sửa đổi, bổ sung các Luật thuế: Thu nhập doanh nghiệp (TNDN), Thu nhập cá nhân (TNCN), Giá trị gia tăng (GTGT), Luật Quản lý thuế, cùng với đó là những cải cách mạnh mẽ về TTHC...

Những nỗ lực trong cải cách TTHC đã giảm thiểu đáng kể thủ TTHC thuế, giảm điều tiết về thuế như rút ngắn thời gian hoàn thuế GTGT đối với trường hợp hoàn thuế trước, kiểm tra sau (giảm từ 15 ngày xuống 6 ngày); Không còn khống chế kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào bỏ sót trong 6 tháng; Cho phép kê khai, điều chỉnh thuế GTGT đầu vào của hóa đơn chứng từ trả chậm vào tháng 12, thay vì 12 tháng như trước kia. Đồng thời, thực hiện “nới rộng” nhiều khoản chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế như: Nâng mức khống chế phần chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại… từ 10% - 15%, bổ sung khoản chi quỹ bảo hiểm không bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện mang tính an sinh xã hội… không quá 1 triệu đồng/tháng/người được hạch toán vào chi phí tính thuế. Thay đổi về thuế suất thuế TNDN như: Thuế suất phổ thông giảm từ 25% xuống còn 22%, DN có doanh thu không quá 20 tỷ đồng/năm xuống 20% và còn tiếp tục giảm theo lộ trình (đối tượng này còn được kê khai nộp thuế GTGT theo quý thay vì theo tháng). Việc ưu đãi thuế TNDN được cải thiện đáng kể như: Mở rộng diện ưu đãi, miễn giảm thuế cả về địa bàn ưu đãi và lĩnh vực ưu đãi, trong đó có ưu đãi do đầu tư mở rộng.

Đáng chú ý, công tác đối thoại, tháo gỡ khó khăn cho DN được toàn ngành Thuế tập trung đẩy mạnh thực hiện tốt và thu được nhiều kết quả tích cực...

Cùng với đó, việc sửa đổi hệ thống chính sách, quản lý thuế cũng như cơ sở hạ tầng truyền thông, công nghệ thông tin phục vụ cho khai thuế điện tử theo cơ chế rủi ro cũng được cơ quan thuế chú trọng, phát triển. Song hành với đó ngành Thuế đã tích cực triển khai chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020 theo Quyết định số 732/ QĐ - TTg ngày 17/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, ngày 29/11/2012, Tổng cục Thuế đã ban hành Tuyên ngôn ngành Thuế Việt Nam kèm theo Quyết định số 1766/QĐ-TCT ngày 1/11/2012, trong đó xác định những giá trị mà ngành Thuế luôn coi trọng, xây dựng và gìn giữ lâu dài, đó là: “Minh bạch - Chuyên nghiệp - Liêm chính và Đổi mới”.

Một số tồn tại, hạn chế

Mặc dù thời gian qua, ngành Thuế đã nỗ lực cải cách chính sách thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế (NNT) nhưng vẫn còn những tồn tại, hạn chế sau:

Thứ nhất, về chính sách thuế và các văn bản hướng dẫn thực hiện. Văn bản hướng dẫn về thuế còn “ôm đồm” các chính sách xã hội, quản lý kinh tế… cũng như tập trung quá nhiều vào việc “đóng” các kẽ hở nhỏ, ngăn chặn các DN lợi dụng sự thông thoáng của việc thành lập DN để gian lận thuế. Cụ thể, thủ đoạn gian lận thuế chủ yếu tập trung vào các DN chiếm số thu nhỏ, đưa tiêu chí để quản lý đối tượng này, vô hình chung ảnh hưởng đến các DN lớn, làm ăn đúng đắn. Do đó, thiệt hại chung sẽ lớn hơn lợi ích thu được.

Trong khi đó, văn bản hướng dẫn về thuế còn thiếu nguyên tắc, chuẩn mực chung mà nặng vào các chi tiết, tiểu tiết, giải quyết các trường hợp nhỏ lẻ nên thiếu rõ ràng, minh bạch, lại rất phức tạp, khó giải quyết được triệt để vấn đề; Hoặc giải quyết được vấn đề này thì nảy sinh các vấn đề khác.

Hơn nữa, do văn bản hướng dẫn về các chính sách thuế, luật thuế ban hành còn chậm, nên gây khá nhiều khó khăn cho DN trong việc thực hiện các chính sách, luật thuế mới trong thực tiễn cuộc sống. Ví dụ: Luật thuế TNDN (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2014, nhưng Thông tư hướng dẫn luật thuế này ký ngày 18/6/2014. Mặc dù, thuế suất được áp dụng từ ngày 1/1/2014 nhưng các khoản chi phí mới thuận lợi hơn cho DN thì thiếu văn bản hướng dẫn. Nhiều khoản doanh thu, chi phí còn trùng lắp: Hàng hoá của DN sử dụng tiêu dùng nội bộ như nhà máy giấy xuất giấy sử dụng tại các phòng ban... vừa đưa vào doanh thu tính thuế, vừa đưa vào chi phí… làm gia tăng TTHC.

Bên cạnh đó, các biểu mẫu kê khai thuế lại tồn tại quá nhiều tiểu tiết không cần thiết. Ví dụ, tờ khai tạm nộp thuế TNDN theo quý có hàng chục chỉ tiêu, nếu tạm nộp chỉ cần dữ liệu về doanh thu, tỷ lệ thu nhập (hoặc tỷ lệ thuế) là tính được; Tờ kê khai thuế GTGT kê cả ký hiệu, số hiệu hoá đơn, mặt hàng… làm mất nhiều thời gian của DN.

Thứ hai, công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý thuế. Thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp, công tác thanh tra, kiểm tra tại DN có vị trí rất quan trọng (kể cả thanh tra chống chuyển giá). Tuy nhiên, lĩnh vực này hiện nay thực hiện vẫn còn nhiều chồng chéo, phức tạp. DN là đối tượng thanh tra, kiểm tra của nhiều cơ quan như: Cơ quan Thuế, thanh tra Tài chính, thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Công an kinh tế… Các cơ quan thanh, kiểm tra lại không sử dụng kết quả của đơn vị trước nên gây khó khăn cho DN. Việc thanh tra, kiểm tra ngoài việc ngăn chặn hành vi gian lận thuế còn có tác dụng chấn chỉnh hạch toán thuế tại DN. DN ít vi phạm cũng có thể coi công tác tuyên truyền hỗ trợ NNT của cơ quan thuế làm tốt, tuy nhiên nhiều đoàn kiểm tra vẫn nặng về chỉ tiêu và số tiền thuế truy thu.

Quy định về hồ sơ nộp thuế, thủ tục hoàn thuế, giảm thiểu số ngày hoàn thuế để tạo thuận lợi cho DN nhưng việc lượng hóa các bước xử lý, giấy tờ này chưa thật cụ thể. Điều này làm cho DN mất nhiều thời gian, thậm chí một số DN mất cả tiền bạc mới có được tiền hoàn thuế. Cá nhân không kinh doanh, có nhà cho thuê khi họ nộp thuế cũng gặp phải những thủ tục rườm rà, phức tạp như: Đăng ký kinh doanh, nộp thuế môn bài, mua hoá đơn … Tình trạng này đã làm giảm ý thức tuân thủ pháp luật của NNT. Bên cạnh đó, cán bộ thuế cũng có trách nhiệm nặng nề, nên lo lắng trong thực hiện công vụ, nếu xử lý sai phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Để đảm bảo an toàn, đôi khi lại gây không ít khó khăn cho DN…

Giải pháp đột phá trong cải cách

Để tạo bước đột phá trong cải cách TTHC thuế trong thời gian tới, cần tập trung xử lý đồng bộ các nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, về thể chế: Nguồn gốc của hệ thống TTHC cùng các biểu mẫu kê khai bắt nguồn từ quy định tại các văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện. Do vậy, trước hết phải rà soát các nội dung, chính sách bất cập, thiếu rõ ràng, minh bạch, đồng bộ thuộc thẩm quyền các các cấp ban hành, để đề xuất kiến nghị phương án xử lý. Đồng thời, rà soát các TTHC được quy định có tính trùng lắp, không thực sự cần thiết hoặc cơ quan thuế có thể khai thác dữ liệu ở các nguồn thông tin thay thế khác.

Theo thống kê, hiện nay có khoảng 95% số lượng DN, kê khai nộp thuế GTGT với số tiền chiếm 29% tổng số tiền thuế GTGT nộp vào NSNN. Trong đó, 84% DN có ngưỡng doanh thu không quá 20 tỷ đồng một năm đang khai thuế GTGT theo quý. Nếu thay đổi chính sách khai nộp thuế GTGT, TTHC thuế với đối tượng DN có doanh thu ở ngưỡng 20 tỷ đồng cũng không ảnh hưởng nhiều đến tiền thuế của NSNN. Theo đó, DN có thể nâng doanh thu khai thuế GTGT theo quý từ không quá 20 tỷ đồng trong một năm, lên mức doanh thu cao hơn (40 hoặc 50 tỷ đồng), DN nhóm này sẽ giảm thiểu 8 lần nộp thuế, kèm theo giảm điền thông tin, khai báo các bộ hồ sơ kê khai tương ứng…

Các quy định chi tiết khi nhập số liệu kê khai nộp thuế GTGT phải đầy đủ tiêu thức (số hiệu hoá đơn, ký hiệu hoá đơn, mặt hàng mua vào)… rà soát đối chiếu hoá đơn chứng từ đủ điều kiện, hay không đủ điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào cũng tiêu tốn đến cả hang trăm giờ của DN… Hoặc trả tờ khai tạm nộp theo quý đối với DN nhỏ và vừa cũng cần xem xét lại: Có thể bỏ tờ khai, chỉ cần giấy nộp tiền có xác định doanh thu và tỷ lệ tạm xác định nộp theo quý, hoặc nếu số thuế không lớn, không tác động nhiều đến NSNN thì có thể cho DN chủ động nộp một hoặc hai lần và quyết toán theo năm.

Thứ hai, về TTHC thuế: Song song với hiện đại hóa toàn diện công tác quản lý thuế, TTHC cũng cần theo hướng chuẩn mực quốc tế. Cụ thể, ngành Thuế cần phải không ngừng nâng cao hiệu quả, hiệu lực bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ; Kiện toàn, hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị; Tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ cho NNT; Nâng cao năng lực hoạt động thanh, kiểm tra, giám sát tuân thủ pháp luật của NNT…

Áp dụng đồng bộ cả việc nộp tờ khai thuế và nộp thuế điện tử. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra trên cơ sở phân loại rủi ro, đồng thời chuyển đổi cơ chế từ tiền kiểm sang hậu kiểm để tạo điều kiện thuận lợi và giảm phiền hà cho NNT. Nghiên cứu phân loại đối tượng nộp thuế ít rủi ro để có ứng xử riêng trong các thủ tục về hoàn thuế, sử dụng hóa đơn chứng từ như: Cải tiến bảng kê sử dụng hóa đơn, thông báo phát hành hoá đơn (Ví dụ: không bắt buộc hoá đơn đối tượng này chỉ thông báo phát hành sử dụng từ 3 - 6 tháng)…

Cùng với đó, lượng hóa thủ tục, hồ sơ cụ thể đối với từng khâu tác nghiệp, đặc biệt là hoàn thuế, miễn giảm thuế, quyết toán thuế... Làm thế nào để NNT có thể tự kiểm đếm số hồ sơ cần thiết theo quy định, tránh đi lại nhiều lần hoặc bị đòi hỏi thêm hồ sơ ngoài quy định. Làm tốt khâu này sẽ giảm thiểu rủi ro cho cả NNT và cán bộ thuế.

Đối với một số khoản thu thuế TNCN, có thể loại bỏ các thủ tục không cần thiết như đã phân tích trên, kể cả việc cấp lẻ hoá đơn và nộp thuế tại cơ quan thuế bằng biện pháp nộp thuế qua ATM như các công ty bảo hiểm nhân thọ đã thực hiện từ nhiều năm nay. Khi đã công khai tỷ lệ nộp trên doanh thu, hoặc tỷ lệ thu nhập chịu thuế… NNT sẽ tự tính số thuế phải nộp và trực tiếp nộp thuế qua ATM vào tài khoản quy định... Căn cứ vào số tiền nhận được và cơ sở dữ liệu quản lý, cơ quan thuế sẽ tự in hoá đơn và gửi NNT.

Thứ ba, đẩy mạnh phát triển đại lý thuế: Cần thực hiện giải pháp thực hiện các thủ tục về thuế như: Tính thuế, kê khai, quyết toán thuế thông qua đại lý thuế là hợp lý nhất. Việc NNT sử dụng đại lý thuế đã được quy định tại Điều 20 của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thực hiện. Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống Thuế giai đoạn 2011-2020 đã nêu: Nghiên cứu việc xã hội hóa trong hoạt động cấp phép đối với đại lý thuế, chứng chỉ hành nghề dịch vụ về thuế; Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đại lý thuế... Ngày 3/3/2014, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 420/QĐ-BTC về việc phê duyệt Kế hoạch phát triển hệ thống đại lý thuế đến năm 2020.

Theo đó, kế hoạch đã chỉ ra mục tiêu tổng quát phát triển hệ thống đại lý thuế theo hướng: Đẩy mạnh việc xã hội hoá hoạt động hỗ trợ NNT tạo tiền đề nhằm tăng dần số lượng đại lý thuế và nâng cao chất lượng dịch vụ do đại lý thuế cung cấp; Mở rộng, đa dạng hoá dịch vụ của đại lý thuế. Xây dựng hệ thống đại lý thuế thực sự trở thành cầu nối giữa cơ quan thuế và NNT; Hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT tuân thủ pháp luật thuế; Giảm chi phí về thời gian, nguồn lực cho cả cơ quan thuế và NNT thực thi pháp luật thuế.

Hiện nay, ở Việt Nam có gần 180 DN được cấp phép kinh doanh trong lĩnh vực làm dịch vụ thủ tục về thuế (đại lý thuế) nhưng chỉ có vài chục DN làm đúng chức năng đại lý thuế, với khoảng 700 DN khai thuế qua đại lý thuế. Trong khi đó, ở Nhật Bản, Hàn Quốc có trên 93% DN thực hiện khai thuế qua đại lý thuế.

Trước tình hình đó, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế và pháp luật có liên quan, tạo cơ chế khuyến khích NNT sử dụng dịch vụ đại lý thuế với một số ưu đãi về mặt thủ tục cho NNT sử dụng dịch vụ đại lý thuế. Đồng thời, có cơ chế để đại lý thuế tham gia giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt đối với DN mới thành lập có rủi ro cao, DN vi phạm pháp luật về thuế.

Thứ tư, về nguồn nhân lực cán bộ công chức thuế: Theo số liệu của Tổng cục Thuế, tổng số lao động toàn Ngành hiện có 44.860 người (cán bộ công chức thuế là 40.598), trong đó, 80% số cán bộ đang quản lý thuế đối với 20% số thu của ngành Thuế quản lý, là chưa hợp lý. Trên thực tế, đội ngũ cán bộ thuế có trình độ về nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ để đảm nhiệm công tác thanh tra, kiểm tra, đặc biệt là vấn đề chống chuyển giá còn yếu và thiếu nghiêm trọng. Để khắc phục được tình trạng này, cần có bước đột phá trong cải cách tiền lương đối với cán bộ công chức thuế để thu hút nhân tài, hạn chế tình trạng tiêu cực.

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 8 - 2014