Thành công trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2014, quan điểm và dự báo năm 2015

Theo tapchicongsan.org.vn

(Tài chính) Trong năm 2014, Việt Nam đã đạt được những thành công trong điều hành chính sách tiền tệ nhằm thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế vĩ mô như kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy tăng trưởng ở mức khá và bảo đảm an sinh xã hội.

Thành công trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2014, quan điểm và dự báo năm 2015
Ngân hàng Nhà nước cũng ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng quy mô và linh hoạt điều hành thị trường mở. Nguồn: internet

Chính sách tiền tệ đã thực hiện được mục tiêu cao nhất

Trong năm 2014, việc điều hành chính sách tiền tệ không chỉ thực hiện được mục tiêu ổn định tiền tệ trên cả 3 góc độ: kiềm chế tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trên thị trường xã hội; ổn định giá trị đối ngoại của đồng Việt Nam (tức tỷ giá); người dân hạn chế việc mua vàng để tìm nơi trú ẩn tài sản; mà còn thúc đẩy tăng trưởng GDP và góp phần giải quyết an sinh xã hội. Bên cạnh đó, còn có sự phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa, hỗ trợ cân đối ngân sách nhà nước trong quá trình điều hành. Việc nhận định chính sách tiền tệ tại Việt Nam phải thực hiện đa mục tiêu cần được nhìn nhận rộng hơn với thực tế rõ ràng là, trong điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối, bao gồm cả quản lý thị trường vàng, chính sách này còn phải thực hiện mục tiêu giảm thâm hụt cán cân thương mại, hạn chế nhập siêu.

Kết quả thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ năm 2014 đã rất rõ ràng: CPI chỉ tăng 4,09%; thấp hơn nghị quyết của Quốc hội và mục tiêu phấn đấu của Chính phủ, tỷ giá VND/USD năm 2014 tăng 0,56% so với năm 2013, phù hợp với định hướng điều hành của Ngân hàng Nhà nước. Kết thúc năm 2014, Việt Nam xuất siêu trên 2,1 tỷ USD; quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia đạt trên 35 tỷ USD; GDP tăng 5,98%, cao hơn mức 5,4% của năm 2013.

Biểu đồ 1: Diễn biến CPI và GDP giữa các quý trong năm 2014

 Thành công trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2014, quan điểm và dự báo năm 2015 - Ảnh 1

                                                                                                     Nguồn: Tổng cục Thống kê

Đạt được các mục tiêu đa chiều nói trên, phải thừa nhận vai trò hàng đầu của chính sách tiền tệ. Đặc biệt, trong bối cảnh chính sách tiền tệ phải thực hiện đa mục tiêu trong điều kiện cụ thể của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay là đang hội nhập sâu rộng với cộng đồng kinh tế quốc tế.

Về sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính, mặc dù có thời điểm một số ý kiến cho rằng, chính sách tài chính lấn át chính sách tiền tệ, hoặc chính sách tiền tệ thì thắt chặt còn chính sách tài chính lại nới lỏng, song cần nhìn nhận việc thực thi lãi suất huy động vốn của ngân sách nhà nước, trong phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trong quản lý tiền gửi của Kho bạc Nhà nước,… là khá đồng bộ, góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu kinh tế vĩ mô.

Về thực hiện mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động trong điều hành chính sách tiền tệ, đó là lãi suất ngắn hạn và dự trữ của ngân hàng thương mại hay chính là thanh khoản của ngân hàng thương mại. Trong những năm qua, Việt Nam cũng có những vấn đề về thanh khoản, lãi suất ngắn hạn của hệ thống ngân hàng thương mại, nhưng đến nay đã được xử lý ổn thỏa. Đặc biệt, trong năm 2014, vấn đề thanh khoản, lãi suất ngắn hạn,… bên cạnh việc được xử lý có hiệu quả thông qua sự linh hoạt trong điều hành thị trường mở, trong việc cho vay tái cấp,… còn được xử lý linh hoạt trong quá trình thực hiện đề án tái cơ cấu ngân hàng thương mại. Theo đó, ngân hàng thương mại có quy mô lớn, có vốn của Nhà nước chi phối, hỗ trợ thanh khoản, hỗ trợ quản trị điều hành ngân hàng thương mại yếu về khả năng thanh toán…Do đó, nhìn chung thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam được bảo đảm, lãi suất ngắn hạn giảm và ổn định. Mặt bằng lãi suất của năm 2014 đã trở về tương đương mặt bằng lãi suất của 10 năm trước đây (giai đoạn 2003 - 2004) và giảm khoảng 1% - 1,5% so với năm 2013. Tỷ lệ an toàn vốn của hệ thống các tổ chức tín dụng tại thời điểm hết tháng 12-2014 cao gấp khoảng 1,4 lần theo quy định tối thiểu của pháp luật. Cơ cấu nguồn vốn của các tổ chức tín dụng dịch chuyển theo hướng ổn định hơn và ít phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng.

Linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ

Để hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và các vấn đề an sinh xã hội khác, trong năm 2014, Ngân hàng Nhà nước điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ theo hướng tập trung tháo gỡ các khó khăn về mở rộng tín dụng an toàn, đáp ứng nhu cầu vốn vay hợp lý cho các đối tượng khách hàng, giảm các loại lãi suất,… Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện 2 lần cắt giảm lãi suất điều hành như sau:

Lần thứ nhất, thực hiện vào ngày 17-3-2014: lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm xuống 6,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm từ 8%/năm xuống 7,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 1,2%/năm xuống 1%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 7%/năm xuống 6%/năm. Từ thời điểm này, Ngân hàng Nhà nước không khống chế lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên như trước đó mà các tổ chức tín dụng chủ động ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường. Lãi suất cho vay ngắn hạn 5 lĩnh vực ưu tiên giảm từ 9%/năm xuống 8%/năm.

Lần thứ hai, thực hiện vào ngày 29-10-2014: Lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa các lĩnh vực ưu tiên từ mức 8%/năm xuống còn 7%/năm; giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD từ mức 1%/năm xuống 0,75%/năm.

Thay đổi trong điều hành lãi suất năm 2014 của Ngân hàng Nhà nước đã tác động tích cực đến cơ cấu tiền gửi theo kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại. Nguồn vốn huy động có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên của các ngân hàng thương mại được gia tăng hơn. Nhiều người lựa chọn gửi kỳ hạn tới 24 và 36 tháng vì dự báo lãi suất sẽ tiếp tục giảm trong năm 2015. Lãi suất huy động kỳ hạn dài chênh lệch kỳ hạn ngắn từ 1,6% - 2,6%/năm, đường cong lãi suất trở về đúng với bản chất vốn có của nó.
Xem xét riêng diễn biến lãi suất bình quân của các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại nhà nước đã cổ phần hóa, khối này chiếm trên 50% thị phần huy động vốn và cho vay trong năm 2014 thì có thể thấy, lãi suất cho vay đã giảm tới 3%, lãi suất huy động vốn cả 2 kỳ hạn đều giảm 1%. Còn nhìn dài hạn hơn, so sánh thời điểm hiện nay thì cả lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay nội tệ của các tổ chức tín dụng đều giảm về mức thấp hơn mặt bằng lãi suất cách đây 10 năm.

Nhìn chung, toàn bộ thị trường đến cuối tháng 12-2014, lãi suất giảm từ 1,5% - 2% so với cuối năm 2013, nhưng người dân vẫn gửi tiền vào hệ thống ngân hàng thương mại. Tính đến hết năm 2014, ước tính tổng phương tiện thanh toán tăng 16%, huy động vốn tăng 15,5% so với cuối năm 2013; trong đó huy động vốn VND tăng 16,5%, chủ yếu ở khu vực dân cư; vốn huy động ngoại tệ tăng 8,2%. Thanh khoản của các tổ chức tín dụng được bảo đảm và dư thừa.

Nguyên nhân chủ yếu là do điều hành chính sách tiền tệ bảo đảm cho người gửi tiền có lãi suất thực dương. Lãi suất tiền gửi nội tệ bình quân lên tới 6% - 8%/năm, trong đó chỉ số CPI chỉ từ 2,08% - 2,2%, người gửi tiền vẫn có thu nhập thực tế từ lãi suất khoảng 4% - 5,8%. Đầu tư vào vàng, ngoại tệ, chứng khoán,… đều bị thua lỗ; đầu tư vào bất động sản có nhiều rủi ro; bỏ vốn ra kinh doanh thì vẫn gặp nhiều khó khăn do cầu của nền kinh tế yếu. Bên cạnh đó, cơ cấu lại các ngân hàng thương mại đã đạt được những kết quả quan trọng, nên người dân tin tưởng gửi tiền vào hệ thống tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước cũng ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng quy mô và linh hoạt điều hành thị trường mở, cho vay tái cấp vốn, trung hòa số tiền bơm ra để mua ngoại tệ cho quỹ dự trữ ngoại hối,… Kèm theo đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện quyết liệt đề án tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của hệ thống ngân hàng. Nếu nhìn vào động thái diễn biến lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước kể từ giữa năm 2013 đến nay, rõ ràng là chính sách tiền tệ đang theo hướng nới lỏng, song thực tế thì tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng của năm 2014 chỉ tăng theo dự kiến.

Về hoạt động tín dụng, đến hết năm 2014, tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế tăng khoảng 13% so với cuối năm 2013. Vấn đề ở đây là, Ngân hàng Nhà nước tăng cường các hoạt động thanh tra, giám sát, áp dụng các quy định mới về tỷ lệ an toàn và phân loại nợ, các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm túc các quy định về cho vay,… mặc dù cả cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức kinh doanh tiền tệ đều nỗ lực để mở rộng tín dụng.

Ngược lại cách đây khoảng 4 năm, tăng lãi suất, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước để thu hút trên 20.000 tỷ đồng của các ngân hàng thương mại,… nhằm kiềm chế lạm phát, song dư nợ tín dụng vẫn tăng cao, nhiều khoản cho vay bị cuốn vào thị trường bất động sản, thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại nhiều thời điểm rơi vào khủng hoảng, lãi suất đẩy chi phí vốn của sản xuất, kinh doanh tăng,… Do đó, quan niệm về thắt chặt hay nới lỏng chính sách tiền tệ cần được nhìn nhận theo hướng linh hoạt, phù hợp với thực tiễn. Thuật ngữ “thận trọng” cũng được sử dụng trong một số tài liệu, một số diễn đàn. Tuy nhiên, dù thắt chặt hay nới lỏng, dù thận trọng hay chặt chẽ thì cùng với việc giảm lãi suất, bơm vốn ra thị trường các quốc gia đều tiến hành kiểm soát chặt chẽ hoạt động của thị trường tài chính, chấn chỉnh hệ thống ngân hàng, rà soát lại hệ thống giám sát, theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô.

Một số quan điểm và dự báo năm 2015

Một là, những nền tảng cơ bản về lý thuyết, về lý luận trong điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục được củng cố trên thực tiễn ở các khu vực kinh tế với mức độ khác nhau trong xu hướng toàn cầu hóa về mặt kinh tế. Tuy nhiên trong điều hành, ngân hàng trung ương hay chính phủ các nước đều linh hoạt, có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa chính sách này với chính sách tài chính cũng như những công cụ của từng chính sách, giữa điều hành gián tiếp và điều hành trực tiếp công cụ chính sách tiền tệ để ưu tiên thực hiện mục tiêu nào trong từng thời điểm, trong từng thời kỳ.

Dự báo năm 2015 và một số năm tới, việc điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam cũng như sự phối hợp với chính sách tài chính tiếp tục được dựa trên nền tảng của năm 2014, dựa trên bài học kinh nghiệm của các năm 2008 - 2014. Trong ngắn hạn, Ngân hàng Nhà nước chưa dỡ bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn, giới hạn lãi suất cho vay các lĩnh vực ưu tiên,... Những quy định hay biện pháp điều hành này sẽ được thay thế bằng cơ chế điều hành gián tiếp khi điều kiện chín muồi. Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng đạt được các mục tiêu cơ bản và thị trường tiền tệ phát triển. Dự báo không loại trừ trường hợp, với các diễn biến thuận lợi, trong nửa đầu năm 2015, Ngân hàng Nhà nước có thể lùi về chỉ quy định trần lãi suất tiền gửi cho các kỳ hạn từ dưới 4 tháng hay 5 tháng, thậm chí là 3 tháng.

Hai là, trong nghiên cứu, tranh luận về học thuật, cần có những suy nghĩ rộng mở, điều kiện cụ thể của từng nền kinh tế, không nên cứng nhắc đưa ra những suy nghĩ chưa có cái nhìn đa chiều, tạo sức ép về dư luận lên điều hành chính sách tiền tệ. Dựa trên các diễn biến kinh tế vĩ mô, diễn biến của thị trường,... dự báo năm 2015 Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục linh hoạt trong chừng mực giới hạn về điều chỉnh lãi suất, về điều hành tỷ giá,... nhưng lãi suất và tỷ giá sẽ đi dần vào thế ổn định, mặt bằng lãi suất của hệ thống tổ chức tín dụng sẽ giảm nhẹ từ 0,5% - 1,0%/năm, tỷ giá VND/USD sẽ tăng không quá 2% so với năm 2014. Lãi suất tiền gửi nội tệ tối đa tại các ngân hàng thương mại sẽ không vượt quá 7,5%/tháng, dao động quanh mức 6,5% - 7,0%; lãi suất cho vay cũng dao động quanh mức 7,5% - 8,0%. Lãi suất VND và lãi suất USD có sự chênh lệch lớn, nhằm mục tiêu chống tình trạng đô-la hóa nền kinh tế.

Ba là, việc xử lý nợ xấu, thực hiện tái cơ cấu tổ chức tín dụng có liên quan trực tiếp đến điều hành chính sách tiền tệ cần phải có lộ trình và có các biện pháp thích hợp, không thể nôn nóng. Dự báo, trong năm 2015, thị trường bất động sản sẽ có chuyển động khá hơn, nhưng chủ yếu là các nhu cầu đích thực về nhà ở, còn nhìn chung quy mô giao dịch của thị trường vẫn nhỏ. Bên cạnh đó, việc thực hiện Thông tư liên bộ số 16/2014 vẫn chưa có hiệu quả rõ rệt. Vì vậy, việc xử lý nợ xấu theo nguyên tắc thị trường, theo cơ chế thị trường không thể như mong đợi mà vẫn chủ yếu dựa vào các hướng đã xử lý trong năm 2014, chất lượng tín dụng tiếp tục phản ánh thực chất hơn, tác động tích cực đến điều hành chính sách tiền tệ.

Bốn là, hạn mức tín dụng được coi là một công cụ điều hành trực tiếp, sử dụng trong giai đoạn nền kinh tế mới chuyển đổi, hay trong các điều kiện cần thiết. Song trong điều kiện hiện nay ở nước ta, tăng trưởng dư nợ tín dụng chỉ nên coi là mục tiêu có tính chất trung gian trong điều hành chính sách tiền tệ.

Dự báo, việc sắp xếp lại các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước trong năm 2015 còn chậm. Mục tiêu cổ phần hóa 200 doanh nghiệp nhà nước trong năm 2014 và 232 doanh nghiệp nhà nước trong năm 2015 của Chính phủ đặt ra rất khó đạt được. Nợ công đã chạm mức 52% GDP và đối mặt với các khoản nợ đến hạn trong các năm tới. Sức mua của nền kinh tế không khá hơn so với năm 2015, do đó sức hấp thụ vốn của nền kinh tế không cao, tăng trưởng tín dụng cũng sẽ khó vượt qua mức của năm 2014. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng phải thực hiện nghiêm túc Thông tư 36/2014/TT-NHNN về các giới hạn và tỷ lệ an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Do đó, dự báo tăng trưởng tín dụng của năm 2015 sẽ không quá 13% - 15%.

Năm là, điều hành chính sách tiền tệ trong quá trình chuyển đổi, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải tham khảo những nguyên lý chung, những cách làm của các quốc gia khác nhưng phải vận dụng phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Vì vậy, trên các diễn đàn, việc nêu kinh nghiệm, nêu bài học và cách làm của các nước trên thế giới là cần thiết, nhưng cần tính đến các điều kiện vận dụng, cơ sở thực tiễn để thực hiện.

Năm 2015 nền kinh tế Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng với khu vực và quốc tế, cơ hội và thách thức cũng ngày càng lớn trong điều hành chính sách tiền tệ. Kim ngạch xuất, nhập khẩu gia tăng cao, tình trạng buôn lậu tiếp tục gia tăng và tinh vi, các luồng ngoại tệ chuyển ra và vào nước ta cũng có quy mô lớn hơn, đòi hỏi việc điều hành tỷ giá, quản lý ngoại hối,... cũng tiếp tục phải được linh hoạt trong bối cảnh chính sách tiền tệ vẫn phải thực hiện đa mục tiêu. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục phối hợp đồng bộ các công cụ điều hành chính sách tiền tệ thực hiện mục tiêu giảm tình trạng đô la hóa nền kinh tế, nâng cao vị thế của đồng Việt Nam, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục được sử dụng linh hoạt trong việc bảo đảm thanh khoản cho các ngân hàng thương mại cũng như trung hòa lượng tiền đưa ra mua ngoại tệ, thực hiện kiểm soát lạm phát tiền tệ theo mục tiêu đã đề ra./.