Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Những thách thức mới

Ths.Đinh Khánh Lê

Ở nước ta, bên cạnh nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan trọng.Vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong những năm qua đã được khẳng định, đóng góp tích cực vào tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước, nhờ những tiền đề quan trọng để FDI đổ mạnh vào Việt Nam trong năm qua. Đây cũng là tiền đề để khơi thông nguồn vốn này trong những năm tiếp theo…

Ảnh minh họa. Nguồn: internet.
Ảnh minh họa. Nguồn: internet.

Năm 2015, Việt Nam được nhiều tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là có môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện, ổn định tạo niềm tin vững chắc cho nhà đầu tư.

Minh chứng cho điều này, khu vực FDI đã chiếm bình quân khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm 2011 - 2015. Điều này đã góp phần tích cực trong hội nhập kinh tế, thúc đẩy đổi mới thủ tục hành chính và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nâng cao trình độ nguồn nhân lực quản trị doanh nghiệp tại Việt Nam...

Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong năm 2015, tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 22,76 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm 2014.

Kết quả thu hút FDI năm 2015 có sự tăng trưởng đồng đều trên tất cả các chỉ tiêu định lượng chủ yếu, đặc biệt là số vốn thực hiện đạt trên 14,5 tỷ, tăng 17,4 % so với 2014, và là mức cao nhất kể từ năm 2008, năm vốn FDI thực hiện lần đầu tiên vượt ngưỡng 10 tỷ USD.

Cụ thể, xuất khẩu (kể cả dầu thô) đạt 115,1 tỷ USD tăng 13,8% so 2014 và vượt 5% so mục tiêu; xuất khẩu (không kể dầu thô) đạt 111,3 tỷ USD tăng 18,5% so 2014 và vượt 8,9% so mục tiêu; Nhập khẩu đạt 97,9 tỷ USD tăng 16,4% so 2014 và vượt 5,2% so mục tiêu.

Cùng với các kết quả trên, năm 2015 cũng là năm có những tiến bộ vượt bậc trong hoàn thiện hệ thống luật pháp liên quan đến đầu tư: Luật Đầu tư 2014 có hiệu lực từ ngày 1/7/2015 thay thế cho Luật Đầu tư 2005 với nhiều thay đổi quan trọng, đặc biệt là các quy định về cấm đầu tư, đầu tư có điều kiện và cải cách thủ tục hành chính về đầu tư.

Các tiến bộ vượt bậc này đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng về FDI trong 5 tháng cuối năm 2015, làm đảo chiều từ suy giảm trong 8 tháng đầu năm so cùng kỳ 2014 để về đích ngoạn mục.

Các thay đổi mang tính đột phá của Luật Đầu tư 2014 đã thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ của FDI vào Việt Nam, thể hiện cụ thể:

Thứ nhất, đã tạo lập cơ sở pháp lý minh bạch để bảo đảm thực hiện nguyên tắc hiến định về quyền tự do đầu tư kinh doanh của công dân trong các ngành nghề mà Luật không cấm;

Thứ hai, đã rà soát, loại bỏ các ngành nghề và điều kiện đầu tư kinh doanh không hợp lý, không rõ ràng. Chuẩn xác tên gọi và hệ thống một số ngành nghề chính xác lại, minh bạch các ngành nghề kinh doanh có điều kiện để không trùng lặp. Trên cơ sở đó, sau rà soát 386 ngành nghề đã rút xuống còn 267 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện (Phụ lục 4 Luật Đầu tư 2014);

Thứ ba, củng cố, hoàn thiện cơ chế bảo đảm đầu tư phải hợp với quy định của Hiến pháp và Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (như cập nhật, hoàn thiện các quy định về việc Nhà nước bảo đảm quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư; Hoàn thiện nguyên tắc không hồi tố trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật thay đổi làm bất lợi đến ưu đãi đầu tư đã áp dụng cho nhà đầu tư...);

Thứ tư, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, như Luật đã đơn giản hóa hồ sơ, trình tự, thủ tục và rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với Nhà đầu tư nước ngoài từ 45 ngày xuống còn 15 ngày (Điều 37 Luật Đầu tư);

Thứ năm, hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thu hút đầu tư;

Thứ sáu, hoàn thiện chế độ phân cấp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư;

Thứ bảy, cải cách thủ tục đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (như Luật đã bổ sung hình thức đầu tư ra nước ngoài thông qua mua, bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác và đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài mà không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư...).

Bên cạnh đó, năm 2015 FDI tiếp tục chảy mạnh vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo bao gồm cả sản xuất phân phối các sản phẩm công nghiệp như điện, khí với 18 tỷ USD, chiếm trên 79% tổng vốn đầu tư đăng ký, phù hợp với định hướng công nghiệp hóa. Tiếp đến là các ngành kinh doanh bất động sản, xây dựng, bán buôn bán lẻ (bao gồm cả sửa chữa ô tô, mô tô), rồi đến nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.

Bên cạnh các kết quả tích cực nêu trên của FDI 2015, còn có những vấn đề, cụ thể:

Trong top 10 đối tác đầu tư lớn nhất trong 2015, chiếm tới trên 80% tổng số vốn đăng ký, cho thấy sự mất cân đối trong đầu tư tại Việt Nam giữa đầu tư còn ít của các đối tác tiềm năng đến từ các nước như: Đức, Pháp, Thụy Sỹ, Mỹ, Canada, Nga... mà chủ yếu đến từ châu Á như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc... Các đối tác tiềm năng khác đều đầu tư ở vị trí khiêm tốn: Hoa Kỳ ở thứ tự 16 dự án, Australia 17 dự án, Pháp 22 dự án, Đức 24 dự án, Canada 34 dự án, Nga 30...

Vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu đánh giá lại thực tế này, làm rõ nguyên nhân vì sao dòng vốn FDI từ các nước: Mỹ, Canada, Đức, Pháp, Thụy Sỹ, Nga... các nước khác từ châu Âu, Bắc Mỹ, châu Úc đến Việt Nam còn khiêm tốn?

Từ góc độ nhìn nhận về hiệu quả và an ninh kinh tế lâu dài, cần tiến hành nghiên cứu các giải pháp về chính sách, về xúc tiến đầu tư... để có được một tỷ lệ đầu tư của từng nước tương xứng với tiềm năng của nước đó và giữa các nước tại Việt Nam trong giai đoạn tới.

Một tỷ lệ đầu tư FDI tại Việt Nam giữa các nước được đề xuất nghiên cứu là: Các nhà đầu tư đến từ châu Á sẽ giữ mức 35%, tương ứng là châu Âu 25%, châu Mỹ 25%, châu Úc 10% và còn lại là từ các khu vực khác thay cho tỷ lệ hiện tại là: Châu Á 70% trong đó đầu tư đến từ Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan là khá cao chưa kể các dự án có yếu tố từ người Hoa khác.

Việc tăng cường thu hút FDI từ các nước phát triển như: Mỹ, châu Âu, Nhật Bản... là yếu tố quan trọng để tiếp cận được công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Tuy nhiên, mức độ thu hút FDI từ Mỹ, châu Âu như hiện nay thực sự đã hạn chế khả năng tiếp cận, tiếp thu công nghệ từ các nước này, trong khi hàm lượng công nghệ cao tại nhiều các dự án khác còn rất ít, hiệu quả thấp, sử dụng nhiều lao động... cho thấy là một vấn đề không nhỏ cần có giải pháp để cân bằng lại trong thời gian tới.

Cũng trong năm 2015, vấn đề phát triển công nghiệp hỗ trợ vẫn chưa khắc phục được các tồn tại từ năm 2014 chuyển sang. Điển hình như, số lượng doanh nghiệp Việt Nam đạt tiêu chuẩn sản xuất, cung cấp sản phẩm cho các doanh nghiệp FDI như Samsung, Canon... vẫn còn rất thấp so yêu cầu của các nhà đầu tư. Các doanh nghiệp Việt Nam chỉ mới tham gia được vào các khâu gia công phụ kiện đơn giản.

Nhìn vào hình thức đầu tư của các dự án FDI được cấp phép trong năm 2015 cho thấy, số dự án đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài là chủ yếu chiếm tới trên 86% số dự án đầu tư. Đây cũng là một trong các vấn đề cần lưu ý để có giải pháp khuyến khích, tăng cường đầu tư theo hình thức thành lập công ty liên doanh (hoặc công ty cổ phần).

Con đường tiếp thu công nghệ cao thông qua đầu tư, sản xuất - kinh doanh trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam trong các liên doanh, các công ty cổ phần là con đường ngắn hơn, ít chi phí hơn so với các con đường khác.

Tỷ lệ các doanh nghiệp FDI được thành lập theo hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm trên 86% (1.611 dự án/1.855 dự án), là con số cao không phù hợp với mục tiêu tiếp nhận công nghệ và kinh nghiệm quản lý thông qua FDI.

Cơ hội và thách thức mới

Bước vào năm 2016 và giai đoạn mới 2016 - 2020, thu hút FDI vào Việt Nam đứng trước những thuận lợi và khó khăn đan xen. Các thuận lợi Việt Nam có được là: Nền kinh tế tiếp tục phát triển với khả năng tăng trưởng GDP cao hơn, trên cơ sở các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực đất nước của Chính phủ đã và tiếp tục được ban hành trong thời gian tới; Các bộ ngành, địa phương đang rất quyết tâm cải cách môi trường kinh doanh thúc đẩy thu hút đầu tư.

Việt Nam đã và đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư, sẽ tác động tích cực mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế trong nước như: Hiệp định FTA với Hàn Quốc đã có hiệu lực; Cộng đồng Kinh tế ASEAN - Việt Nam đã kết thúc đàm phàn FTA với EU, Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương...

Tuy nhiên, bên cạnh các cơ hội trên, các khó khăn, thách thức cũng đặt ra rất rõ như: Dòng vốn FDI của các đối tác lớn trong toàn cầu có xu hướng giảm; Cạnh tranh trong thu hút FDI ngày càng gay gắt giữa các quốc gia. Sức cạnh tranh của môi trường đầu tư mỗi nước sẽ quyết định thành tựu thu hút đầu tư của nước đó.

Đối với Việt Nam, những khó khăn nội tại của nền kinh tế đã tồn tại nhiều năm vẫn cần tiếp tục được khắc phục: Nguồn nhân lực cao, đã qua đào tạo còn thiếu; Cơ sở hạ tầng và dịch vụ còn yếu kém so nhiều nước trong khu vực; Công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển, còn có khoảng cách giữa chính sách và việc thực thi...

Trên cơ sở nhận diện những cơ hội và thách thức có thể, dự kiến nguồn vốn FDI thực hiện trong 2016 tăng khoảng 10% so 2015, đạt khoảng 15 tỷ USD; vốn FDI đăng ký đạt tương đương mức đã đạt được 2015 khoảng 23 tỷ USD.

Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

Trong giai đoạn 2011-2020, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài nêu trên để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời tích cực góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững.

Một là, thu hút vốn FDI trong giai đoạn đến năm 2020 phải được điều chỉnh theo hướng chuyển từ thiên về số lượng như trước đây, sang chú trọng nhiều hơn đến hiệu quả thu hút và nâng cao chất lượng đầu tư, tận dụng tối đa nguồn FDI để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và hiệu quả, thực hiện nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, từ đó góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững.

Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích để thu hút các dự án đầu tư hình thành mạng lưới liên kết sản xuất, kinh doanh, các ngành công nghiệp hỗ trợ để hình thành chuỗi giá trị. Có chính sách thu hút công ty đa quốc gia, có chính sách ưu đãi đối với các công ty đa quốc gia có kế hoạch liên kết với các doanh nghiệp trong nước về tiêu thụ, cung ứng sản phẩm để hình thành các cụm công nghiệp - dịch vụ.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung thể chế và triển khai áp dụng nghiêm hệ thống quy định các yêu cầu bắt buộc về công nghệ, chuyển giao công nghệ, thu hút, đào tạo kỹ năng cho người lao động. Quy định yêu cầu bắt buộc về chất lượng của các dự án FDI tùy theo lĩnh vực và địa bàn đầu tư.

Quy định về trình độ công nghệ dự án FDI cho từng ngành theo địa bàn đầu tư. Đối với các đô thị có mật độ công nghiệp cao, những địa bàn phát triển du lịch sinh thái sẽ hạn chế tối đa thu hút FDI có hàm lượng công nghệ thấp, gây ô nhiễm ở mức độ nhất định và tỷ trọng gia công cao.

Hai là, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành cần tăng tỷ trọng đầu tư nước ngoài như đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông, nông nghiệp và nông thôn, điện, nước, tài chính, tín dụng, giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng; các ngành sản xuất có yếu tố hàm lượng công nghệ, đào tạo lao động và chuyển giao công nghệ, kỹ năng, hoạt động R&D.

Hỗ trợ các hoạt động đầu tư có hiệu quả, đồng thời giảm thiểu những mặt hạn chế, tiêu cực như nhập khẩu nhiều nhưng không chú trọng sản xuất mà chỉ tập trung vào gia công, lắp ráp và khai thác thị trường nội địa là chủ yếu; lợi dụng kẽ hở về chính sách, pháp luật của Việt Nam để thực hiện hành vi chuyển giá, kê khai lỗ hoặc lợi nhuận thấp để chuyển lợi nhuận về nước, không có đóng góp hoặc đóng góp rất thấp nguồn ngân sách nhà nước của Việt Nam.

Không tiếp nhận hoặc hạn chế tối đa những dự án FDI sử dụng công nghệ thấp, có khả năng tiêu hao nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, sinh thái.

Có các chính sách, quy định về thuế, phí, đất đai, quản lý ngoại hối... để thu hút, khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất, chế biến sử dụng đầu vào trong nước thay vì nhập khẩu, gia công, lắp ráp, chú trọng vào kinh doanh thương mại, nhất là tại thị trường nội địa. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa.

Ban hành văn bản pháp quy nhằm điều chỉnh và quản lý thống nhất hoạt động xúc tiến đầu tư trên cả nước; xây dựng Chiến lược xúc tiến đầu tư điều phối tổng thể các hoạt động xúc tiến ở bình diện quốc gia; xây dựng và công bố danh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2011-2015 và giai đoạn 2016-2020.

Ba là, để nâng cao chất lượng và hiệu quả thu hút vốn FDI, cần có sự kết hợp chặt chẽ chính sách FDI với các chính sách điều chỉnh ngành khác, bao gồm chính sách đầu tư chung, chính sách KCN theo hướng hình thành cụm công nghiệp có tính chuyên môn hóa và chính sách phát triển kinh tế vùng.

Các chính sách này cần xây dựng trên nguyên tắc tiếp cận tổng thể quốc gia để tạo tín hiệu chung dẫn dắt FDI tới ngành, vùng cần khuyến khích phát triển; hạn chế các địa phương thu hút các ngành nghề như nhau, thiếu sự phối hợp và bổ sung cho nhau giữa các ngành dẫn đến tình trạng phát triển tràn lan mà vẫn thiên lệch, thiếu chuyên môn hóa.

Bốn là, rà soát và sửa đổi, bổ sung quy chế phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài, bảo đảm tính chủ động của các địa phương nhưng cần gắn với trách nhiệm giải trình, hoàn thiện hệ thống chế tài để tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát, điều chỉnh của các Bộ, cơ quan Trung ương trong trường hợp cần thiết.

Trong giai đoạn 2011-2020, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài nêu trên để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời tích cực góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững.