Vấn đề cơ bản của công nghiệp hỗ trợ

Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, là động lực trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng, giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa quốc gia. Ở tầm vĩ mô, phát triển CNHT giúp giảm kim ngạch nhập khẩu đầu vào sản xuất, giúp hạn chế các căng thẳng về thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế (nhất là cán cân thương mại) cũng như ngoại tệ đối với những nước nhập khẩu hàng hóa.

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của CNHT, trong đó có thể kể đến:

Thứ nhất, quy mô cầu. Điều này xuất phát từ thực tế là ngành CNHT đòi hỏi nhiều vốn và công nghệ hiện đại. Để giảm thiểu chi phí trên một đơn vị sản phẩm, các DN phải tính đến lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Đó là lý do tại sao các nhà đầu tư muốn đảm bảo một thị trường có quy mô lớn (hoặc ít ra có tiềm năng quy mô lớn trong tương lai) trước khi ra quyết định đầu tư.

Thứ hai, tình trạng thiếu thông tin và sự chênh lệch về tiêu chuẩn chất lượng giữa nhà cung cấp linh phụ kiện và các DN lắp ráp cũng là các nhân tố cản trở sự phát triển của ngành CNHT.

Thứ ba, yếu tố nguồn nhân lực. Hiện nay, đa phần các ý kiến cho rằng nguồn nhân lực có trình độ cao còn quan trọng hơn máy móc hiện đại. Điểm làm nên điều khác biệt chính là đội ngũ nhân công có tay nghề cao vì họ chính là những người trực tiếp vận hành, cải tiến máy móc, phát minh ra những phương pháp mới nhằm nâng cao hiệu quả công việc.

Ngoài ra, những chính sách của Chính phủ như chính sách thuế (giảm thuế và ưu đãi về thuế) và các chính sách hỗ trợ khác (hỗ trợ công nghệ, tài chính, đào tạo...) là công cụ quan trọng trong việc thúc đẩy CNHT phát triển.

Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam

Thực trạng chung:

Tại Việt Nam, các vấn đề lý luận cũng như chính sách phát triển ngành CNHT chỉ được bàn thảo nhiều trong thời gian gần đây. Trong những năm qua, việc năng lực cạnh tranh của quốc gia cũng như doanh nghiệp (DN) ít được cải thiện, chính sách nội địa hóa không đạt kết quả như mong muốn, những bất ổn vĩ mô kéo dài và việc chậm trễ trong quy hoạch, xây dựng và ban hành chính sách cho CNHT đã tạo nhiều bất cập và là sức ép lớn cho phát triển CNHT ở Việt Nam trong những năm tới.

Theo tính toán của Bộ Công Thương, ngành CNHT hiện lệ thuộc đến gần 80% vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Rất nhiều lĩnh vực công nghiệp đặt ra mục tiêu, kế hoạch nâng cao tỷ lệ nội địa hóa cùng với đó là các chính sách ưu đãi được triển khai mạnh mẽ nhưng hầu như chưa có lĩnh vực nào đạt kết quả như mong muốn. Thực trạng này là do có quá ít DN Việt Nam làm CNHT, nếu có thì chủ yếu tham gia khâu đóng gói, bao bì. Hiện tại, phần lớn các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng cho các công ty nước ngoài chủ yếu là các DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Khoảng cách về tiêu chuẩn chất lượng giữa các DN trong và ngoài nước còn khá lớn. Phần lớn các DN trong nước có quy mô nhỏ và vừa nên khả năng đáp ứng về yêu cầu chất lượng kém. Trong khi đó, các DN nhà nước trong ngành CNHT vẫn duy trì phong cách làm ăn tự cung tự cấp; thiếu liên kết để tham gia thầu phụ công nghiệp. Vì vậy, không tìm kiếm được những thông tin về khả năng giao thầu của DN lớn, nhất là DN nước ngoài và ngược lại, các DN nước ngoài cũng ít thông tin về DN Việt Nam. Cùng với đó, các cụm công nghiệp cũng được hình thành thiếu quy hoạch tổng thể, chủ yếu để giải quyết vấn đề mặt bằng sản xuất hơn là việc tạo nên chuỗi giá trị thông qua việc liên kết DN… Điển hình cho thực trạng này là ngành xe máy, ô tô.

Ngành xe máy có thể xem là đạt được tỷ lệ nội địa hóa cao nhất trong các ngành. Với các DN có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ lệ nội địa hóa đạt được xấp xỉ 70-75%, có thể coi đây là một tiến bộ trong việc phát triển ngành CNHT.

Trong hơn 10 năm qua, Nhà nước đã có chủ trương bảo hộ cho các liên doanh sản xuất ô tô, các hãng đưa ra cam kết sẽ nội địa hóa 30 - 40% sau khi đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, tỷ lệ nội địa hóa chỉ đạt từ 5 - 10%. Chỉ có một vài DN đạt tỷ lệ nội địa hóa 20%.

Tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng, sở dĩ ngành công nghiệp xe máy đạt được tỷ lệ trên là sau một thời gian dài hưởng rất nhiều chính sách ưu đãi, các DN chỉ nhập linh kiện về lắp ráp. Trước tình trạng này, Chính phủ nâng mức thuế suất thuế nhập khẩu linh kiện từ 30-50% nên DN phải tập trung đầu tư chiều sâu, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa để giảm giá thành sản phẩm. Mặc dù tỷ lệ nội địa hóa đã cao nhưng thực tế cũng cho thấy, ngành CNHT xe máy còn tồn tại nhiều vấn đề. Sản phẩm của các DN hoạt động trong ngành CNHT cho xe máy chỉ là các chi tiết linh kiện sản xuất với kỹ thuật công nghệ đơn giản như: giảm xóc, đồng hồ báo xăng, bộ dây điện, yên xe. Chưa có DN nào sản xuất các bộ phận chính quan trọng đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ cao như động cơ, hộp số…

Với ngành ô tô, sau hơn 10 năm xây dựng và phát triển, đến nay Việt Nam có khoảng 70 DN sản xuất linh kiện, phụ tùng cho ngành công nghiệp ô tô trong nước. Số DN này thực sự còn quá mỏng, quy mô còn nhỏ và thậm chí năng lực còn rất yếu. Nếu ví ngành công nghiệp ôtô như một quả núi thì các DN sản xuất, lắp ráp là phần ngọn, còn phần quan trọng nhất là chân núi chính là CNHT.

Theo Bộ Công Thương, công nghiệp sản xuất phụ tùng ô tô tại Việt Nam là ngành mới nổi nên khó khăn còn nhiều, đặc biệt là trong xu thế hội nhập và cạnh tranh hiện nay. Trong hơn 10 năm qua, Nhà nước đã có chủ trương bảo hộ cho các liên doanh sản xuất ô tô, các hãng đưa ra cam kết ban đầu là sẽ nội địa hóa 30 - 40% sau khi đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, công nghiệp ô tô đạt được tỷ lệ nội địa hóa thấp nhất trong các ngành, trung bình từ 5 - 10%. Chỉ có một vài DN đạt tỷ lệ nội địa hóa là 20%.

Bất cập về nhận thức:

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chiến lược phát triển công nghiệp được xây dựng trên khả năng cạnh tranh quốc tế. Khả năng cạnh tranh quốc tế lại được xây dựng bằng nhiều yếu tố như chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm, chi phí thời gian, chuyên môn hóa tiếp thị và dịch vụ hậu mãi. Nhân tố chi phí sản xuất, như đã nói ở chính là việc sẵn có sản phẩm CNHT ở trong nước.

Trong một thời gian dài, các DN Việt Nam đã quen với việc sản xuất tích hợp theo chiều dọc. Theo đó, mọi khâu của quá trình sản xuất sản phẩm đều được khép kín trong nội bộ DN, bất cứ DN nào cũng muốn có sản phẩm mang thương hiệu, trong khi khả năng cạnh tranh kém do cách tổ chức sản xuất. Trên thực tế, có rất ít các sản phẩm công nghiệp Việt Nam có sức cạnh tranh và có thương hiệu quốc tế, chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước.

Trình độ công nghiệp Việt Nam có thể sản xuất được nhiều sản phẩm công nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập toàn cầu, khái niệm "sản xuất được" phải hiểu theo nghĩa là có khả năng trình độ công nghệ sản xuất được sản phẩm, đồng thời sản phẩm phải mang tính cạnh tranh và tồn tại được trên thị trường. Trong điều kiện hội nhập quốc tế với nhiều hiệp định tự do thương mại, thuế quan, sự cạnh tranh toàn cầu của các sản phẩm công nghiệp ngày càng gay gắt, phải thay đổi nhận thức của cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng DN về tầm quan trọng của CNHT, nếu không phát triển ngành CNHT sẽ không có ngành công nghiệp chế tạo.

Đầu tư của Nhà nước còn hạn chế:

Mặc dù, nhận thức được vai trò quan trọng của CNHT đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng, nhưng sự đầu tư các nguồn lực cho ngành CNHT chưa tương xứng.

Các chủ trương mới mang tính chất động viên, tuyên truyền, Nhà nước chưa đầu tư đủ nguồn lực bao gồm ngân sách và nhân lực cho CNHT. Sự quan tâm và đầu tư phát triển ngành CNHT chưa tương xứng với vai trò đặc biệt quan trọng của nó.

Hiện nay, các chính sách và đầu tư cho CNHT đang mang tính dàn trải, lồng ghép trong nhiều chính sách và chương trình khác nhau. Có nhiều đầu mối cùng triển khai các hoạt động trợ giúp phát triển CNHT nhưng sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng rất khó khăn và chưa thực sự nhịp nhàng, ăn khớp. Với nguồn lực ngân sách nhà nước còn eo hẹp, phần đầu tư cho ngành CNHT rất hạn chế, các DN rất khó tiếp cận sự hỗ trợ của Nhà nước.

Thiếu vốn và công nghệ:

Một thực tế hiện nay, khoảng cách giữa khả năng các DN cung ứng nội địa với các DN nước ngoài hiện nay là rất lớn về yêu cầu chất lượng, giá bán cũng như thời gian giao hàng.

Nguyên nhân do các DN CNHT gặp rất nhiều khó khăn về vốn và công nghệ để có thể đầu tư trang thiết bị, chuyển giao công nghệ sản xuất phù hợp.

Chất lượng nguồn nhân lực thấp:

Việt Nam có nhiều thuận lợi về nguồn nhân lực như nguồn lao động trẻ, dồi dào. Tuy nhiên, đối với CNHT thì nguồn nhân lực có trình độ và kỹ năng chuyên môn mới là điều quyết định. Nguyên nhân của việc thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghiệp do nội dung đào tạo tại các trường kỹ thuật lạc hậu, không gắn với thực tiễn sản xuất. Bên cạnh đó, sự mất cân đối trong phát triển kinh tế cũng tạo ra tâm lý lao động xã hội chỉ quan tâm đến các ngành thương mại và dịch vụ. Về trung hạn, Việt Nam sẽ tiếp nhận chuyển giao công nghệ, thay cho việc nghiên cứu, phát hiện công nghệ, trong việc gia công, sản xuất các chi tiết quan trọng thay cho việc nhập khẩu từ nước ngoài, nhưng để tiếp thu tốt các kỹ năng, kỹ thuật và công nghệ thì yêu cầu cấp bách phải có nguồn nhân lực có chất lượng cao.

Môi trường kinh tế vĩ mô:

Môi trường kinh tế Việt Nam trong thời gian dài vừa qua chưa tạo đủ điều kiện thuận lợi để thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào công nghiệp nói chung và CNHT nói riêng. Một số lĩnh vực đem lại tỷ suất lợi nhuận cao như bất động sản, chứng khoán đã làm nguồn lực xã hội đầu tư vào sản xuất công nghiệp hạn chế. Ngoài ra, việc khởi tạo DN công nghiệp chế tạo khó khăn và nhiều rủi ro hơn nhiều việc thành lập DN hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Cùng với đó là việc thu hồi vốn chậm, tỷ suất lợi nhuận thấp do lãi suất tín dụng cao.

Ngoài ra, sự liên kết giữa các DN CNHT với các DN sản xuất lắp ráp còn yếu kém, thiếu sự phối hợp liên kết giữa nhà lắp ráp với các nhà sản xuất hỗ trợ, giữa các nhà sản xuất CNHT với nhau, giữa các DN FDI và nội địa. Sự liên kết này cần phải có sự hỗ trợ và tác động của Nhà nước.

Một số đề xuất, khuyến nghị

Từ thực trạng trên, để giải quyết được những tồn tại, bất cập và thúc đẩy ngành CNHT Việt Nam phát triển đúng với tiềm năng và kỳ vọng, các cơ quan hữu quan, DN nên quan tâm đến một số kiến nghị, đề xuất sau:

Một là, đẩy mạnh việc hoàn thiện quy hoạch phát triển CNHT.

Từ năm 2007, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) đã phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành CNHT đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 nhưng có thể nhận thấy rất nhiều mục tiêu mà quy hoạch đó đề ra đến năm 2010 đã không thực hiện được. Sở dĩ có tình trạng này là vì các mục tiêu được đưa ra nhưng không có đơn vị chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện, không có kế hoạch tài chính đủ mạnh hay rất nhiều mục tiêu đề ra còn mang tính dàn trải...

Chính vì vậy, khâu đột phá đầu tiên để phát triển ngành này là hoàn thiện lại quy hoạch phát triển CNHT. Trong đó từng ngành, từng lĩnh vực phải rà soát và đề ra mục tiêu phát triển các sản phẩm phụ trợ của ngành mình theo phương châm “làm đến đâu chắc đến đó” và đề ra tiến độ cụ thể việc nội địa hóa cho từng sản phẩm, từng chi tiết chứ không đề ra theo kiểu “phong trào” như thời gian vừa qua.

Thực trạng ngành công nghiệp hỗ trợ ở việt nam - Ảnh 1

Hai là, đổi mới các chính sách nhằm khuyến khích các nhà đầu tư phát triển CNHT. Cụ thể:

- Về chính sách đất đai, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi về quỹ đất cho các DN sản xuất các sản phẩm phụ trợ được thuê lâu dài và ổn định theo luật định. Các DN này được thuê đất với mức giá ưu đãi để các chủ DN có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đầu tư mở rộng quy mô sản xuất.

- Về chính sách tín dụng, Chính phủ phải có chính sách ưu đãi, hỗ trợ thông qua quỹ tín dụng ưu đãi trong CNHT. Chính phủ phải là “bà đỡ” để giúp DN lớn dần.

- Về chính sách thuế, cần xếp các DN sản xuất các sản phẩm phụ trợ vào nhóm các DN được ưu đãi về thuế, để các DN này khi thành lập được hưởng thời gian miễn giảm thuế như các DN được ưu đãi đầu tư khác.

- Về chính sách đầu tư, để phát triển ngành CNHT một cách hiệu quả thì Nhà nước cần đầu tư hình thành một số DN chủ chốt ở một số lĩnh vực như cơ khí chế tạo, nhựa, cao su, sản xuất linh kiện... theo hình thức Nhà nước đầu tư thành lập mới DNNN ở lĩnh vực này, sau khi đi vào hoạt động có hiệu quả thì sẽ triển khai cổ phần hóa. Đây là kinh nghiệm khá thành công khi được áp dụng ở Singapore và một số quốc gia châu Á khác.

Để tạo sự phát triển đột phá của ngành CNHT, Nhà nước cần có sự đầu tư thích đáng cho ngành này, bao gồm cả các dự án đầu tư và sự hỗ trợ DN. Đồng thời, cần dành riêng nguồn lực đầu tư mạnh mẽ cho ngành CNHT, không lồng ghép với các chương trình khác. Với đặc điểm các DN Việt Nam có năng lực còn yếu, cần phải thành lập Quỹ Đầu tư CNHT riêng cho ngành CNHT Việt Nam. Hiện nay, điểm yếu cơ bản của ngành CNHT Việt Nam là chưa chủ động được vật liệu đầu vào cơ bản như sắt, thép chế tạo, nhựa, chất dẻo…

Trong đó, Việt Nam có lợi thế so sánh với nguồn tài nguyên khoáng sản tương đối phong phú như các loại quặng kim loại và dầu mỏ. Để tạo sự chủ động được vật liệu đầu vào của ngành CNHT, Nhà nước phải tham gia đầu tư các dự án chế biến sâu khoáng sản cơ bản. Các dự án mang tính chất thượng nguồn này thường có quy mô lớn, yêu cầu về vốn đầu tư rất lớn, thường là hàng tỷ USD các thành phần kinh tế khác không đủ năng lực để đầu tư.

Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành CNHT.

Chất lượng nguồn nhân lực cho ngành CNHT cũng phải được không ngừng nâng cao. Để thực hiện được điều này mở rộng sự liên kết trong đào tạo giữa các trường đại học trong nước và các trường đại học có uy tín trên thế giới. Đồng thời, cần có sự đầu tư nâng cấp các cơ sở đào tạo, từ các trường đại học cho đến các trường dạy nghề để nâng dần chất lượng của những người lao động trong tương lai.

Bốn là, tăng cường sự liên kết giữa các DN trong quá trình phát triển CNHT.

Cần đẩy mạnh sự liên kết giữa các DN trong nước với nhau cũng như giữa các DN trong và ngoài nước trong việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm phụ trợ. Bộ Công Thương và Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam cần phối hợp với các DN có nhu cầu về các sản phẩm hỗ trợ cũng như các DN có khả năng sản xuất những sản phẩm này để tổ chức các buổi hội thảo về phát triển các sản phẩm hỗ trợ của từng ngành, từng lĩnh vực; tổ chức các hội chợ, triển lãm về sản phẩm. Thông qua đó làm cầu nối cho các DN trong và ngoài nước liên kết, hợp tác với nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoặc thành lập liên doanh để cùng nhau sản xuất các sản phẩm phụ trợ.

Năm là, hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho CNHT phát triển.

Hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng là một trong những giải pháp hết sức quan trọng trong việc đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để sản xuất các sản phẩm hỗ trợ. Việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng sẽ góp phần giảm bớt chi phí cho các nhà đầu tư, giúp cho hàng hóa của họ (linh kiện, vật tư, phụ tùng...) thuận lợi hơn trong việc lưu thông cả ở thị trường trong và ngoài nước.

Sáu là, Nhà nước cần tổ chức bộ phận chịu trách nhiệm theo dõi, chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch phát triển CNHT.

Cần thành lập một bộ phận chịu trách nhiệm theo dõi việc triển khai kế hoạch phát triển các sản phẩm phụ trợ cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế (có thể trực thuộc Bộ Công Thương). Để bộ phận này hoạt động có hiệu quả, cần bố trí những cán bộ chuyên trách có năng lực để kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện quy hoạch cũng như các kế hoạch phát triển ngành CNHT.

Tài liệu tham khảo:

1. http://www.dankinhte.vn/cong-nghiep-phu-tro-la-gi;

2. http://kkthatinh.gov.vn/?x=217/xuc-tien-dau-tu;

3. http://www.baomoi.com/Phat-trien-cong-nghiep-ho-tro-Chinh-phu-phai-la-ba-do;

4. Tờ trình Chính phủ Dự thảo Nghị định về phát triển công nghiệp hỗ trợ.

Thực trạng ngành công nghiệp hỗ trợ ở việt nam

TS. NGUYỄN ĐÌNH LUẬN - Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh

(Tài chính) Phát triển công nghiệp hỗ trợ có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mỗi quốc gia, đặc biệt là ở những quốc gia đang phát triển. Bài viết phân tích thực trạng công nghiệp hỗ trợ ở nước ta nhằm tìm ra nguyên nhân của sự yếu kém mà ngành này đang gặp phải, từ đó đưa ra những khuyến nghị nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ trong thời gian tới.

Xem thêm

Video nổi bật