Triển vọng kinh tế Việt Nam trung hạn giai đoạn 2016-2020

Theo ncseif.gov.vn

Giai đoạn 2016-2020, nền kinh tế Việt Nam sẽ kế thừa quán tính tăng trưởng từ năm 2015 và tiếp tục cải thiện nhờ vào hàng loạt yếu tố hỗ trợ từ giá hàng hoá thấp, lực đẩy từ các doanh nghiệp FDI và nhu cầu bên ngoài, cùng với những cải cách về thể chế của nền kinh tế sẽ phát huy hiệu quả.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Khu vực công nghiệp – xây dựng sẽ có tăng trưởng mạnh mẽ, là động lực chính cho sự phục hồi toàn nền kinh tế. Khu vực dịch vụ sẽ duy trì ở mức tăng trưởng vừa phải trong khi tăng trưởng của nông lâm thủy sản được đánh giá là khó có thể đạt mức tăng trưởng cao trong một vài năm tới nếu như chưa thể có những giải pháp đột phá giúp giải quyết các khó khăn hiện tại giúp nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh.

Khu vực CN-XD tiếp tục tăng trưởng bứt phá và trở thành khu vực dẫn dắt tăng trưởng toàn nền kinh tế trong giai đoạn 2016-2020 khi môi trường kinh doanh tiếp tục khởi sắc hơn, cầu trong nước cải thiện, và những ảnh hưởng tích cực từ chính sách hỗ trợ của Chính phủ.

Tuy nhiên, trong dài hạn, khu vực này vẫn còn đối mặt với những thách thức: i) giá cả một số nguyên vật liệu đầu vào quan trọng (than, điện…) không ổn định và nhiều khả năng sẽ tăng giá.

Điều này sẽ bất lợi cho hoạt động kinh doanh và sản xuất của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến. ii) sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất còn yếu, giá trị gia tăng trong sản xuất thấp, hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm chưa cao.

Đáng lo lắng là công nghiệp chế biến, chế tác và phụ trợ vẫn còn tăng chậm. Đặc biệt, bối cảnh hội nhập khu vực sâu rộng, cộng đồng chung ASEAN (AEC) sẽ chính thức có hiệu lực vào cuối năm 2015, chính thức thực thi TPP trong một vài năm tới, nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh Việt Nam sẽ phải đối mặt với khó khăn lớn trong cạnh tranh khi năng lực cạnh tranh còn yếu và chưa có sự chuẩn bị tốt cho hội nhập.

Đối với khu vực dịch vụ, với sự cải thiện cầu tiêu dùng, xúc tiến thương mại được triển khai mạnh mẽ, cùng với việc hiện thực hóa của cộng đồng chung ASEAN và thực thi các hiệp định tự do thương mại mang lại tự do hóa thương mại dịch vụ, và tự do hóa đầu tư, tài chính sẽ có nhiều tác động tích cực đến việc mở rộng các hoạt động dịch vụ Việt Nam.

Khu vực dịch vụ nhiều khả năng sẽ tăng trưởng tốt hơn trong giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, trong diễn biến của quá hội nhập khu vực, đi cùng với cơ hội là thách thức lớn đặt ra lớn đối với ngành dịch vụ khi có sự gia tăng áp lực cạnh tranh từ các doanh nghiệp của các nước trong khu vực, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, logistic.

Do đó, việc cải thiện tăng trưởng khu vực dịch vụ sẽ phụ thuộc nhiều việc năng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước hoạt động trong lĩnh vực này.

Đối với khu vực nông lâm thủy sản, những yếu tố hạn chế về năng suất và khó khăn do xuất khẩu các mặt hàng NLTS phải đối diện với những yêu cầu ngày càng khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng và các điều kiện thương mại; chi phí đầu vào tiếp tục tăng và khó khăn trong đầu ra; Chuyển đổi cơ cấu sản phẩm nông nghiệp và đưa KHCN vào nông nghiệp diễn ra chậm, chưa thực sự phản ánh lợi thế so sánh và chưa đáp ứng triển vọng nhu cầu trong tương lai vẫn sẽ là những yếu tố cản trở đến sự phát triển của khu vực này trong dài hạn.

Ngoài ra, khi cộng đồng AEC ra đời và hiện thực hóa TPP cùng với việc giảm thuế quan có thể khiến luồng hàng nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp và chăn nuôi từ các nước vào Việt Nam gia tăng, với giá cả cạnh tranh hơn, hệ quả tất yếu là thị phần hàng hóa liên quan tại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng và cạnh tranh sẽ gay gắt hơn.

Điều này sẽ gây ra những khó khăn lớn cho nông dân và các doanh nghiệp trong khu vực này. Sự phát triển của khu vực này trong tương lai sẽ phụ thuộc nhiều vào hiệu quả tái cấu trúc và thay đổi mô hình sản xuất gắn với công nghệ hiện đại, chi phí thấp, giúp nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.

Vốn đầu tư

Các dòng vốn tăng mạnh trở lại, đặc biệt là dòng vốn trong khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư, đặc biệt đầu tư công được nâng cao

Cùng với khả năng phục hồi của nền kinh tế, đồng thời tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài và phát huy nội lực của vốn đầu tư trong nước, theo đó, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng. Trong đó:

Vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà nước:Trong giai đoạn 2016 – 2020 dựa trên kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo đúng các nguyên tắc, tiêu chí quy định trong Luật Đầu tư công và Chỉ thị số 23/2014/CT-TTg, Chính phủ thể hiện quyết tâm khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu hiệu quả trong sử dụng vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước khi quy định chặt về phê duyệt chủ trương đầu tư, từ đó, có thể tăng tính trách nhiệm trong lựa chọn dự án, hạn chế tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí.

Vốn đầu tư phát triển khu vực tư nhân: Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế trong và ngoài nước, hoạt động kinh doanh của khu vực tư nhân khởi sắc trở lại đồng nghĩa với vốn đầu tư khu vực này tăng trưởng. Xu hướng thể hiện rõ sự thay đổi tích cực trong cơ cấu vốn đầu tư, theo đó, vốn đầu tư của khu vực tư nhân đã gần bắt kịp khu vực Nhà nước. Hơn nữa, chủ trương ưu tiên bố trí vốn hỗ trợ đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư phát triển xã hội trong giai đoạn tới như là một kênh huy động vốn hiệu quả, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông vận tải.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Theo báo cáo mới đây của Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), xu hướng dịch chuyển vốn FDI toàn cầu năm 2015 phân bố không đồng đều giữa các khu vực, trong đó, châu Á thu hút mạnh mẽ và đạt mức tăng kỷ lục so với các khu vực khác.

Tuy nhiên, tại Đông Nam Á, trong khi các quốc gia khác như Myanmar, Indonesia, Thái Lan có tốc độ tăng trong thu hút vốn FDI tiếp tục tăng, nhưng lại giảm ở Việt Nam. Như vậy, có thể thấy sức hút về vốn FDI của Việt Nam so với các quốc gia khác trong khu vực đã suy giảm hơn so với trước.

Tuy nhiên, trong giai đoạn tới, sau khi Việt Nam hoàn tất nhiều thỏa thuận đàm phán từ các hiệp định thương mại song phương, đa phương, nhất là hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN, thực thi Hiệp định đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Đối tác kinh tế khu vực toàn diện (RCEP)… được kỳ vọng sẽ thúc đẩy dòng vốn FDI vào Việt Nam.

Vốn đầu tư gián tiếp:Việc thúc đẩy các DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường đồng thời phát triển khu vực kinh tế tư nhân là quan điểm nhất quán của Việt Nam, được thể hiện rõ nét qua quyết tâm của Chính phủ trong việc cổ phần hóa DNNN gắn với niêm yết trên TTCK không giới hạn tỷ lệ sở hữu và sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo động lực thu hút vốn đầu tư gián tiếp trong giai đoạn 2016-2020.

Tuy nhiên, để hấp thụ nguồn vốn này, các DN trong nước cần nỗ lực vươn lên, tăng cường quản trị công ty, quản trị rủi ro, minh bạch và công khai hóa thông tin, đồng thời cơ quan quản lý cũng phải nâng cao năng lực quản lý, giám sát và điều hành thị trường nhằm bảo đảm sự ổn định, bền vững của TTCK, vừa thu hút có hiệu quả dòng vốn đầu tư gián tiếp, vừa hạn chế được những bất lợi phát sinh.

Xuất nhập khẩu

Trong giai đoạn 2016-2020, tình hình xuất nhập khẩu tiếp tục tăng trưởng tốt nhưng với tốc độ tương đương hoặc tăng nhẹ so với giai đoạn trước. Lý do có thể kể đến là nhu cầu thế giới, đặc biệt là những đối tác nhập khẩu lớn của Việt Nam được dự báo khả quan hơn; Thương mại và đầu tư thế giới cũng gia tăng; Các hiệp định thương mại song phương và đa phương bắt đầu phát huy tác dụng.

Kim ngạch nhập khẩu Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng ổn định và có nhiều khả năng nền kinh tế sẽ trở lại vị thế nhập siêu. Điều này được giải thích chủ yếu do khu vực xuất khẩu tăng trưởng tốt làm tăng nhu cầu sản xuất của khu vực trong nước, từ đó nâng cao nhu cầu nhập khẩu các nguyên vật liệu, máy móc.

Bên cạnh đó, trong 2 năm tới,khả năng các ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam chưa thể đảm bảo được nhu cầu sản xuất trong nước là khá cao.

Tiêu dùng dân cư

Sự phục hồi tích cực của tiêu dùng trong năm 2015 tạo ra bước đệm quan trọng cho tiêu dùng giai đoạn 2016-2020. Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế đang phục hồi khả quan, không có quá nhiều biến động từ bên ngoài, chính phủ tiếp tục các chính sách bình ổn thị trường, dự báo tiêu dùng trong giai đoạn tới sẽ tiếp tục phục hồi tích cực.

Ngoài ra, xu hướng tiết kiệm sẽ giảm xuống do mức lãi suất tiết kiệm đã giảm xuống mức thấp. Thu nhập của người dân đến năm 2020 có khả năng tăng gấp 2 lần so với năm 2013, trong khi mức giá ổn định, người dân có thể tăng chi tiêu dùng hoặc đầu tư thay vì tiết kiệm.

Tâm lý tiêu dùng thoải mái hơn của người dân cũng sẽ đóng vai trò quan trọng tác động đến mức tăng trưởng tiêu dùng cao hơn trong thời gian tới.

Giá cả

Trong thời gian tới lạm phát nhiều khả năng sẽ được tiếp tục duy trì ở mức 5%, điều này sẽ góp phần ổn định kinh tế vĩ mô tạo, điều kiện thuận lợi cho quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, đồng thời tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Chính sách tiền tệ tiếp tục được điều hành chủ động, linh hoạt, phối hợp đồng bộ trong điều hành các công cụ chính sách tiền tệ; phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, nhất là chính sách tài khóa để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhưng không ảnh hưởng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát.

Tuy nhiên, để thúc đẩy tăng trưởng bền vững, thực sự tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, ngoài các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ, cần triển khai quyết liệt các biện pháp tái cơ cấu doanh nghiệp từ các bộ, ngành và địa phương.

Tài chính tiền tệ

Khu vực tài chính tiền tệ ổn định, hỗ trợ mạnh cho khu vực doanh nghiệp và ổn định kinh tế vĩ mô

- Quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng sẽ được đẩy mạnh về chất trong giai đoạn 2016-2020. Quá trình tái cơ cấu hệ thống NH đã chính thức khởi động từ năm 2012 nhằm ngăn chăn những rủi ro và nguy cơ bất ổn đã tích tụ nhiều năm trước đó khi hệ thống NHTM phát triển ồ ạt. Quyết tâm lớn của NHNN và Chính phủ là hoàn thành cơ bản quá trình tái cơ cấu vào năm 2015, song thực tế, đến hết năm 2015 như đã phân tích ở trên, việc tái cơ cấu mới chỉ dừng ở mức cơ học, chưa có nhiều cải thiện về mặt tài chính và quản trị. Quá trình thay đổi về chất, tức là quá trình cải tổ về mặt quản trị và tài chính sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ trong 5 năm tới, điều này sẽ được NHNN và Chính phủ nỗ lực thực hiện bởi có như vậy thì cam kết của NHNN và Chính phủ mới thực sự được hiện thực hóa. Theo đó, hệ thống ngân hàng trở nên lành mạnh hơn, an toàn hơn trong vai trò dẫn vốn của mình.

- Điểm nghẽn nợ xấu sẽ được xử lý, dòng tiền trong nền kinh tế được khơi thông. Với cam kết cuối năm 2015 đưa nợ xấu về mức dưới 3%, xử lý nợ xấu đang được NHNN nỗ lực tìm nhiều biện pháp thực hiện. Như vậy, giai đoạn 2016-2020 vấn đề nợ xấu sẽ không còn là vật cản hay “điểm nghẽn” kinh tế nữa. Nợ xấu được kiểm soát, an toàn hệ thống sẽ được đảm bảo, dòng vốn trong nền kinh tế sẽ được lưu thông, tạo thuận lợi hơn cho quá trình tiếp cận vốn của khu vực doanh nghiệp khi mà hầu hết doanh nghiệp Việt Nam vẫn hoạt động dựa nhiều vào vốn vay NH.

- Lãi suất sẽ tiếp tục ổn định ở mức thấp, góp phần hỗ trợ mạnh mẽ cho khu vực doanh nghiệp. Lãi suất hiện đang ở mức rất thấp, theo đó khó có thể giảm thêm, trong khi đó, sự ổn định về lạm phát, nợ xấu được xử lý sẽ là nguyên khiến lãi suất không tăng cao. Theo đó, lãi suất được dự báo là sẽ tiếp tục ổn định ở mức thấp như hiện nay.

- Tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2 sẽ được kiểm soát theo hướng vừa hỗ trợ tăng trưởng vừa đảm bảo ổn định dòng tiền và lạm phát. Định hướng điều hành chính sách tiền tệ vừa được xem là kết quả của việc rút kinh nghiệm tăng tưởng tín dụng và cung tiền cao trước đây, vừa là định hướng điều hành chính sách theo mục tiêu đã nêu ở trên.

- Áp lực tăng tỷ giá sẽ đậm hơn, gắn với gia tăng áp lực nợ công của Việt Nam, sự cải thiện tích cực kinh tế Mỹ và tăng nhanh giá trị USD trên thế giới. Các doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước sẽ được tiếp cận với các sản phẩm dịch vụ tài chính cạnh tranh và có chất lượng cao hơn từ nhà cung cấp nước ngoài. Tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt dần theo tín hiệu thị trường, song vẫn đảm bảo tính ổn định, cũng như đảm bảo các mục tiêu vĩ mô dài hạn khác.