Vai trò của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong thương mại quốc tế

Theo PGS., TS. Vũ Văn Hà/tapchicongsan.org.vn

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của sản xuất, hoạt động thương mại thế giới thể hiện ở các nhu cầu giao thương, loại hình sản phẩm, dịch vụ, nguyên tắc, chuẩn mực giao dịch... cũng có sự phát triển ngày càng cao, minh bạch, toàn diện, hướng đến sự phát triển bền vững.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Minh chứng cụ thể là sự chuyển đổi lên mức độ rộng hơn, cao hơn trong các thỏa thuận thương mại tự do, mà hiện nay được gọi là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

1- Theo quan niệm truyền thống, hiệp định thương mại tự do (FTA) là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó bằng việc cắt giảm thuế quan, có các quy định tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên.

Sự ra đời, phát triển của FTA gắn liền với quá trình phát triển của thương mại thế giới. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, nhìn chung buôn bán trên thế giới phát triển tự do. Bối cảnh thế giới sau chiến tranh, nhất là sau cuộc đại khủng hoảng 1929 - 1933 và tiếp đến cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã tác động mạnh đến hoạt động thương mại quốc tế.
Để khôi phục nền kinh tế, nhiều quốc gia đã xác lập các hàng rào thuế để bảo vệ thị trường nội địa trước sự xâm nhập của hàng hóa bên ngoài có khả năng cạnh tranh cao hơn. Các quốc gia gần gũi về địa lý thực hiện các thỏa thuận trong giao dịch thương mại, tạo các ưu đãi để thúc đẩy phát triển kinh tế.

Trên thực tế, cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và sự gia tăng nhu cầu mở rộng giao thương và đầu tư, các quốc gia đều mong muốn giảm thuế quan. Cùng với các thỏa thuận ưu đãi riêng giữa hai hay một số quốc gia, nhu cầu về một dạng hình thỏa thuận có tính đa phương trong cắt giảm thuế quan cũng ngày càng gia tăng. Sự ra đời của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) năm 1948 chính là đáp ứng xu thế chung này.
Các nước tham gia GATT đã tiến hành nhiều đợt đàm phán để ký kết những thỏa thuận thương mại mới và mỗi đợt đàm phán như vậy được gọi là một vòng đàm phán. Tại vòng đàm phán thứ tám, kết thúc năm 1994, các nước thành viên nhất trí thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thay cho GATT. Nhìn chung, những thỏa thuận thương mại trong các vòng đàm phán đó ràng buộc các nước ký kết phải tiến hành cắt giảm thuế cũng như giảm bớt các hàng rào thương mại phi quan thuế khác đối với hàng hóa. Mức độ giảm thuế khác nhau tùy theo từng nước cũng như từng loại hàng hóa.

Như vậy, quá trình tự do hóa thương mại được tiến hành đồng thời bởi các thỏa thuận theo hướng đa phương và các thỏa thuận theo hướng song phương. Song có một thực tế, là các vòng đàm phán cấp độ toàn cầu, theo hướng đa phương thường kéo dài. Đến vòng đàm phán Đô-ha bế tắc xuất phát từ bất đồng về chính sách thương mại trong nông nghiệp giữa Mỹ và Ấn Độ..., và kết quả là đàm phán bị hoãn vào năm 2008.

Để đối phó với sự bế tắc trong vòng đàm phán Đô-ha, các quốc gia có xu hướng quay sang ký kết các FTA, dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ của các FTA trong những thập niên gần đây. Vai trò của FTA là thúc đẩy thương mại tự do, hợp tác kinh tế và đầu tư. FTA dường như ưu việt hơn WTO ở chỗ là thời gian đàm phán ký kết ngắn, dễ đạt đồng thuận do ít nước tham gia, lĩnh vực FTA bao quát rộng hơn so với WTO. Theo thông báo của WTO, từ khi GATT được thành lập cho đến năm 1994, mới có 123 FTA, từ năm 1995 đến nay, đã có hơn 400 FTA được ký kết, có thông báo tới WTO.

Không ít quốc gia trước đây tập trung hướng theo tự do hóa thương mại đa phương trong khuôn khổ của WTO, nhưng trước tình hình trên cũng đã chuyển hướng trong chính sách tự do hóa thương mại. Nhật Bản lần đầu tiên ký FTA đầy đủ với Xin-ga-po vào năm 2002, tiếp đó là với một loạt nước thành viên của ASEAN. Nhật Bản cũng đã hoàn tất FTA với toàn khối ASEAN (tồn tại song song với các FTA riêng rẽ với một số thành viên ASEAN). Đối với Mỹ, sau thời kỳ chỉ duy trì Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và FTA song phương với I-xra-en, Mỹ đã ký FTA song phương với Xin-ga-po và Chi-lê (năm 2003) và tiếp tục đàm phán ký với một số đối tác khác ở châu Á, Trung Mỹ... Liên minh châu Âu (EU) cũng đã triển khai đàm phán FTA với ASEAN từ năm 2007, và đàm phán riêng với từng quốc gia trong ASEAN như với Việt Nam.

Các nội dung mà FTA đề cập đến thường bao gồm: Thứ nhất, quy định về việc cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan; thứ hai, quy định danh mục mặt hàng đưa vào cắt giảm thuế quan. (Thông lệ áp dụng chung là 90% thương mại); thứ ba, quy định lộ trình cắt giảm thuế quan, khoảng thời gian cắt giảm thuế thường được kéo dài không quá 10 năm; thứ tư, quy định về quy tắc xuất xứ.

Thương mại thế giới ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của sản xuất và tiêu dùng. Nếu trước đây các hoạt động giao dịch chủ yếu là các sản phẩm hữu hình, thì ngày nay ngày càng nhiều sản phẩm dịch vụ, phi vật thể. Các thể nhân trên thị trường giao dịch cũng gia tăng về số lượng và quy mô, thực hiện kinh doanh thương mại theo hướng chuyên ngành và đa ngành. Các phương thức giao dịch cũng ngày càng hiện đại, nhiều dịch vụ thương mại mới ra đời. Bên cạnh đó, các hoạt động xúc tiến đầu tư, hợp tác chuyển giao công nghệ, thuận lợi hóa thủ tục hải quan... trong quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, các nhà sản xuất và phân phối cũng được đẩy mạnh. Do sự phát triển này, việc thỏa thuận giữa các quốc gia trong giao thương cũng ngày càng mở rộng nội dung. Điều đó có nghĩa, các nội dung được đề cập trong các FTA không chỉ còn bó hẹp trong các nội dung truyền thống như đã đề cập ở trên, mà còn được bổ sung các nội dung mới. Chính vì vậy, xuất hiện khái niệm FTA thế hệ mới.

2- Xét theo tiến trình phát triển thương mại thế giới, nội dung thỏa thuận trong các FTA đã từng bước được mở rộng. Các FTA giai đoạn đầu (có thể gọi là thế hệ đầu) tập trung vào tự do hóa thương mại hàng hóa hữu hình, thông qua cắt giảm thuế quan và cùng nhau thỏa thuận loại bỏ các rào cản phi thuế quan. Các thành viên của FTA giai đoạn này thường là các quốc gia có sự gần gũi về mặt địa lý, thuận lợi trong giao thương. Đây là sự tranh thủ vượt trước, tạo thuận lợi và tận dụng các lợi thế để phát triển.

Cùng với sự phát triển của hoạt động sản xuất vật chất, các hoạt động dịch vụ đi theo ngày càng phát triển và dần tách ra trở thành một ngành kinh tế có tiềm năng phát triển. Sự phát triển của khoa học - công nghệ trong những thập niên sau chiến tranh thế giới thứ hai càng thúc đẩy mạnh sự phát triển của ngành dịch vụ. Ngay từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, các nhà kinh tế đã nói về sự xuất hiện của nền kinh tế dịch vụ ở Mỹ. Hiện nay, có thể nói kinh tế thế giới đang quá độ sang một nền kinh tế mới - nền kinh tế dịch vụ. Sự chuyển đổi trong cơ cấu kinh tế cũng đẩy đến làm thay đổi cơ cấu thương mại và xu hướng kinh doanh. Các công ty ngày càng tập trung nhiều hơn vào việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ, nhất là các sản phẩm dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, như phần mềm máy tính, dịch vụ thiết kế... Trước bối cảnh đó, chính sách của các chính phủ cũng thay đổi để thích ứng với những thay đổi trong xã hội và cạnh tranh kinh tế.

Trên phương diện hội nhập đa phương, sau nhiều năm đàm phán, năm 1995 Hiệp định về thương mại dịch vụ (GATS) đã được ký kết và trở thành một trong những hiệp định quan trọng nhất của WTO. Sự ra đời của hiệp định này là một trong những thành tựu quan trọng của Vòng đàm phán thương mại U-ru-goay và góp phần thúc đẩy hơn nữa sự phát triển và tự do hóa ngành dịch vụ nói chung, phát triển và tự do hóa thương mại dịch vụ nói riêng.

Trong bối cảnh chuyển đổi này, nội dung các FTA cũng được mở rộng, không chỉ tự do hóa sản phẩm hàng hóa hữu hình mà bao gồm cả sản phẩm dịch vụ và đầu tư, xóa bỏ các điều kiện tiếp cận thị trường trong lĩnh vực dịch vụ. Đây được xem như thế hệ tiếp sau thế hệ đầu của FTA. Trong giai đoạn này, FTA không chỉ mở rộng nội dung thỏa thuận sản phẩm và dịch vụ, mà còn được mở rộng về không gian địa lý. Các FTA thời kỳ đầu được khuyến khích bởi các quốc gia kề cận về không gian địa lý, bước sang giai đoạn hai, các FTA bao gồm hai hoặc nhiều hơn các thành viên có thể không kề cận về địa lý.

Bước sang thế kỷ XXI, cùng với sự gia tăng xu thế toàn cầu hóa, thương mại quốc tế ngày càng được tăng cường. Quá trình toàn cầu hóa tạo điều kiện và thúc đẩy các hoạt động giao dịch và đòi hỏi các quốc gia phải cải cách hoàn thiện thể chế, nâng cao các tiêu chuẩn và điều kiện, môi trường lao động. Quá trình tự do hóa thương mại gắn chặt với quá trình hợp tác, liên kết sản xuất. Nền sản xuất thế giới hình thành các mạng sản xuất và các chuỗi giá trị, mà mỗi quốc gia, mỗi nhà sản xuất tùy thuộc điều kiện và năng lực của mình tham gia các phân đoạn của chuỗi giá trị toàn cầu.
Chính vì vậy, các thỏa thuận thương mại trên cơ sở các FTA không chỉ bao chứa các thỏa thuận trao đổi hàng hóa và dịch vụ, xúc tiến đầu tư, mà còn có cả các nội dung, yêu cầu mới mà trong khung khổ GATT/WTO chưa có quy định. Phạm vi cam kết của FTA này còn bao gồm những lĩnh vực, như thuận lợi hóa thương mại, hoạt động đầu tư, mua sắm chính phủ, chính sách cạnh tranh, các biện pháp phi thuế quan, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế giải quyết tranh chấp, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, lao động, môi trường, thậm chí còn gắn với những vấn đề dân chủ, nhân quyền hay chống khủng bố...
Các FTA với các nội dung mới như vậy chính là thế hệ thứ ba, mà hiện nay thường được gọi là “FTA thế hệ mới”. Điều này cũng có nghĩa, khái niệm Hiệp định thương mại tự do được sử dụng rộng rãi, không chỉ trong phạm vi hẹp của những thỏa thuận hội nhập khu vực và song phương có cấp độ liên kết kinh tế “nông” của giai đoạn trước thập niên 80 của thế kỷ trước, mà được dùng để chỉ các thỏa thuận hội nhập kinh tế “sâu” giữa hai hay một nhóm nước với nhau.

Tóm lại, thuật ngữ FTA thế hệ mới hoàn toàn mang tính tương đối, phản ánh quá trình phát triển ngày càng mạnh và đa dạng của quá trình tự do hóa thương mại và liên kết sản xuất trên phạm vi toàn cầu thông qua kênh các hiệp định thương mại khu vực, trong bối cảnh thỏa thuận đa phương toàn cầu chưa khắc phục được sự bế tắc cùng với sự nảy sinh những quan ngại, thậm chí là chống lại quá trình toàn cầu hóa ở không ít quốc gia. Để phân biệt FTA thệ hệ mới, thường căn cứ theo:

Thứ nhất, mức độ tự do hóa thương mại cao
. Các nước tham gia FTA thế hệ mới thường đàm phán xóa bỏ phần lớn các dòng thuế. Điều đó có nghĩa khi tham gia FTA thế hệ mới, độ mở của nền kinh tế rất cao, các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ... cơ bản được tự do luân chuyển trong phạm vi không gian các quốc gia thành viên FTA.

Thứ hai, phạm vi cam kết rộng, không chỉ các nội dung liên quan đến tự do hóa thương mại mà cả các nội dung phi thương mại. Các FTA thế hệ mới là những hiệp định toàn diện, không chỉ bó hẹp trong thương mại và đầu tư như các FTA truyền thống, mà với những cam kết mở cửa thị trường sâu rộng cả về thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở mức cao và những cam kết về thể chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công... nhằm tạo môi trường kinh doanh minh bạch và cạnh tranh công bằng.
Các hiệp định này còn bao gồm các nội dung tuy không phải là thương mại trực tiếp nhưng có liên quan đến thương mại, như đấu thầu, môi trường, sở hữu trí tuệ, lao động và công đoàn. Thực ra, tiêu chuẩn lao động và vấn đề môi trường là những vấn đề đã từng được đưa ra khỏi Chương trình nghị sự thương mại toàn cầu kể từ Hội nghị Xi-a-tơn của WTO năm 1999, bởi các nước đang phát triển lúc đó còn nghi ngại, cho rằng đây dường như là những “hàng rào bảo hộ mới”.
Song, trong bối cảnh toàn cầu hóa, vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động ngày càng được coi trọng, vì chính người lao động là người trực tiếp sản xuất các sản phẩm hàng hóa, nên trước hết họ phải được bảo đảm các quyền, lợi ích và các điều kiện lao động cơ bản, và cũng là để bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng giữa các bên trong quan hệ thương mại. Đây là cách tiếp cận trong đàm phán của các FTA thế hệ mới và đang trở thành một xu thế trong những năm gần đây trên thế giới.

Thứ ba, các cam kết cao, rộng, nhưng cũng linh hoạt, tạo điều kiện cho các nước đi sau (các nước đang phát triển) có thể điều chỉnh chính sách theo lộ trình phù hợp với trình độ phát triển của mình. Nếu như trong FTA truyền thống, lộ trình cắt giảm thuế thường kéo dài không quá 10 năm, thì trong các FTA thế hệ mới nhìn chung lộ trình được đẩy nhanh hơn. Chẳng hạn đối với tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) của Việt Nam, ngoài các mặt hàng được giảm thuế ngay, các mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế trong vòng 5 - 10 năm, trừ một số mặt hàng nhạy cảm có lộ trình trên 10 năm hoặc áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan.

Thứ tư, về cơ chế giám sát của các FTA thế hệ mới có yêu cầu cao hơn, chặt chẽ hơn trong quá trình thực thi. Ví dụ theo quy tắc xuất xứ từ sợi trong TPP, sản phẩm may mặc của một quốc gia phải được làm từ vải được dệt từ sợi do chính quốc gia đó sản xuất mới được hưởng ưu đãi từ các nước thành viên TPP. Trong quá trình thực hiện TPP, nếu các nước đối tác phát hiện ra mặt hàng nào đó xuất khẩu với số lượng ồ ạt từ một nước có năng lực sản xuất còn hạn chế, họ sẽ thành lập đoàn kiểm tra, nếu vi phạm, thì sẽ bị trừng phạt rất nặng.

Thứ năm, các FTA thế hệ mới áp dụng cơ chế pháp lý mới trong giải quyết các tranh chấp phát sinh. Các FTA thế hệ mới nêu rất rõ quy chế giải quyết tranh chấp bằng việc nhà nước kiện nhà nước hoặc nhà đầu tư kiện nhà nước mà các FTA thế hệ cũ không có. Ngoài ra, TPP cũng yêu cầu xóa bỏ thuế xuất khẩu, bởi việc áp dụng thuế xuất khẩu cũng là một biện pháp có thể “bóp méo” thị trường. Ví dụ, việc áp thuế xuất khẩu sẽ khiến chi phí nhập khẩu của các nhà nhập khẩu từ các nước đối tác tăng lên, làm giá bán sản phẩm tại thị trường nhập khẩu cũng cao hơn...

Thứ sáu, trong các FTA thế hệ mới đều có thành viên với trình độ phát triển kinh tế cao hàng đầu thế giới. Đây cũng là điều khác biệt với các FTA truyền thống. Chẳng hạn, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) bao gồm các nước đang phát triển. Ngay cả FTA Việt Nam - Hàn Quốc, FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu (EAEU), tuy cũng mới được ký kết nhưng cũng không phải là các FTA có các cam kết cao như TPP hay Hiệp định thương mại tự do xuyên Đại Tây dương (TTIP).
Trong FTA Việt Nam và EAEU vẫn áp dụng quy trình cấp chứng nhận xuất xứ thông qua một cơ quan có thẩm quyền do nhà nước quy định như trong các FTA truyền thống Việt Nam đã ký, chứ không phải doanh nghiệp tự chứng nhận như trong TPP. Các nội dung về sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, phát triển bền vững... chủ yếu mang tính hợp tác và không vượt quá những cam kết như trong WTO.

Các thành viên có trình độ phát triển cao trong các FTA thế hệ mới là động lực dẫn dắt hợp tác, là cơ sở cho các thỏa thuận sâu, rộng, và các cam kết ở mức cao trong nội khối FTA.

3- Với yêu cầu cao và tính toàn diện, FTA thế hệ mới được kỳ vọng có vai trò quan trọng trong thúc đẩy tự do thương mại cả về mặt lượng và chất. Có thể nhận thấy vai trò của các FTA thế hệ mới trên một số khía cạnh sau:

Một là, trong khi các vòng đàm phán thương mại toàn cầu của WTO đang bế tắc và trước mắt chưa thể có bước đột phá, thì các FTA thế hệ mới đang là giải pháp có tính khả thi để thúc đẩy tiến trình tự do hóa thương mại và đầu tư, cạnh tranh, nâng cao tiêu chuẩn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (IPR), môi trường và tiêu chuẩn lao động, vốn chưa được quy định trong các hiệp định hiện tại của WTO. Các FTA thế hệ mới được triển khai sẽ thúc đẩy mạnh hơn tiến trình tự do hóa. Trên thực tế, bản thân các quốc gia không tự cắt giảm thuế, xóa bỏ các rào cản, mà chỉ có thông qua đàm phán, thiết lập các FTA mới, mở ra các cơ hội để thúc đẩy tự do hóa, góp phần vào quá trình tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia thành viên FTA. Có thể nói đây chính là vai trò kinh tế của các FTA.

Khi phân tích về tác động của FTA đối với thương mại và kinh tế toàn cầu, các chuyên gia chỉ ra hai dạng tác động: tác động tĩnh và tác động động. Tác động tĩnh là tác động diễn ra với bất cứ thành viên nào khi tham gia ký FTA, còn tác động động là tác động có thể xảy ra hoặc không xảy ra trong mỗi FTA cũng như đối với mỗi thành viên FTA.

Tác động tĩnh của FTA có thể là tác động tạo thương mại hoặc tác động làm chuyển hướng thương mại. Khi ký các FTA, các thành viên được hưởng ưu đãi, trong đó có việc cắt giảm hoặc xóa bỏ các hàng rào thuế quan. Với việc này, xuất hiện tình trạng có hàng hóa thông qua nhập khẩu sẽ rẻ hơn so với hàng hóa sản xuất trong nước do có chi phí cao hơn.
Điều này thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu nội khối và cũng vì vậy thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất và cơ cấu thương mại của các nước thành viên FTA. Đối với các FTA thế hệ mới, mức cắt giảm thuế rất sâu trên nhiều hàng hóa và dịch vụ nên tác động tạo thương mại càng mạnh, cũng có nghĩa cơ hội đặt ra nhiều đi liền với thách thức trong quá trình cơ cấu lại, nâng cao sức cạnh tranh.

Cùng với tác động tạo thương mại, việc ký các FTA sẽ tác động làm chuyển hướng thương mại. Trong quan hệ giữa các nước khi chưa tham gia FTA, hàng hóa luân chuyển giữa các quốc gia thường theo hướng: đối với các hàng hóa có chất lượng tương ứng mà chí phí sản xuất thấp sẽ có cơ hội xuất khẩu sang nước khác.
Tuy nhiên, khi một trong các quốc gia tham gia FTA, họ sẽ chuyển sang nhập khẩu hàng hóa nội khối, cho dù chí phí sản xuất có cao hơn, nhưng do được giảm thuế và các ưu đãi khác, nên giá nhập khẩu vẫn có tính cạnh tranh.
Do vậy, điều đó sẽ gây thiệt hại cho quốc gia không phải là thành viên FTA. Về bản chất ở đây có sự phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại quốc tế. Đây là hiệu ứng thúc đẩy các quốc gia không là thành viên FTA đàm phán để tham gia FTA hay ký các FTA mới. Như vậy, khi một FTA được ký kết, nó sẽ có những tác động đến lợi ích các quốc gia, và sẽ làm thay đổi chính sách của các quốc gia là thành viên cũng như những quốc gia không là thành viên của một FTA nào đó.

Về tác động động của việc ký kết, triển khai các FTA cũng được các quốc gia thành viên kỳ vọng. Tác động này đến từ việc mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. Do được hưởng các ưu đãi và xóa bỏ các rào cản thuế nên, về nguyên tắc, các thành viên FTA được hưởng lợi từ sự gia tăng quy mô thị trường, cũng có nghĩa nhu cầu và tính đa dạng thị trường tăng lên, mở ra các cơ hội với nhà sản xuất.
Tất nhiên, đi liền với mở rộng thị trường là sự gia tăng cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Cạnh tranh được coi là động lực phát triển và đó cũng là tác động lớn nhất của FTA. Tham gia FTA đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp trong các quốc gia thành viên không còn nhận được sự bảo hộ từ các công cụ chính sách thương mại của nhà nước. Họ sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt hơn từ các sản phẩm của các nước thành viên FTA.
Các tác động mang tính động tạo ra sức ép để các nhà sản xuất trong nước phải vận động vươn lên, nắm lấy cơ hội đổi mới hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, hạ giá thành sản phẩm. Đó là con đường duy nhất để thành công trong hội nhập đối với các doanh nghiệp.

Tác động đáng lưu ý nữa của FTA là thúc đẩy sự lưu chuyển của các dòng vốn đầu tư. Do các cam kết bảo đảm lợi ích cao, và cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong FTA thế hệ mới và nhiều dịch vụ hỗ trợ đi kèm cùng các thị trường đầu tư mới xuất hiện, nên dòng vốn đầu tư lưu chuyển mạnh hơn. Điều này mở ra cơ hội với các nền kinh tế thành viên FTA, song cũng làm cho cạnh tranh đầu tư ngày càng quyết liệt.

Điều đáng chú ý, các tác động trên với các quốc gia thành viên còn tùy thuộc vào điều kiện cụ thể mỗi quốc gia. Song những tác động đó sẽ làm cho quá trình tự do hóa thương mại được tăng cường. Bởi lẽ, dù việc ký các FTA có dẫn đến thực tế tồn tại sự phân biệt giữa các quốc gia thành viên và không phải thành viên, thì hiển nhiên là quá trình tự do hóa thương mại đang được đẩy mạnh trong các khối FTA, và chính việc ký kết nhiều các FTA tạo hiệu ứng kích thích cho tiến trình đàm phán tự do hóa thương mại đa phương.

Hai là, đi liền với vai trò thúc đẩy mạnh mẽ hội nhập và liên kết kinh tế, các FTA thế hệ mới còn có vai trò quan trọng góp phần nâng cao chuẩn mực tự do hóa thương mại. Vai trò chung của các FTA như trên đã phân tích là thúc đẩy thương mại, trong bối cảnh tự do hóa thương mại toàn cầu qua kênh đa phương đang gặp khó khăn. Các FTA thế hệ mới với các yêu cầu cao hơn và rộng hơn đối với thương mại hàng hóa, dịch vụ... đã nâng cao và chặt chẽ hơn trong tiêu chuẩn tham gia hội nhập.

Chúng ta biết rằng, với tác động của quá trình toàn cầu hóa, một thị trường lao động mang tính toàn cầu đã và đang hình thành. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp, các quốc gia phải tính đến thị trường lao động toàn cầu, mà ở đó có chuẩn mực, các tiêu chuẩn chung về sử dụng lao động.
Bên cạnh đó, quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, buộc các quốc gia, cả các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển phải cùng nỗ lực đối phó, thích ứng và giảm thiểu tác động, nói cách khác trong quá trình tổ chức sản xuất phải tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường và phát triển bền vững đã được Liên hợp quốc thông qua.
Tuy nhiên, trong các FTA trước đây, những tiêu chuẩn này ít được quan tâm, thậm chí không được đề cập. Trong các FTA thế hệ mới, các nội dung này được quan tâm, trở thành các chuẩn mực thương mại mới buộc các quốc gia phải đàm phán, chấp thuận khi trở thành thành viên của các FTA thế hệ mới.

Ngày nay, vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động ngày càng được coi trọng trên cơ sở coi người lao động là người trực tiếp làm ra các sản phẩm trong thương mại quốc tế, nên trước hết họ phải được bảo đảm các quyền, lợi ích và các điều kiện lao động cơ bản. Đây là cách tiếp cận của các FTA thế hệ mới và đang trở thành một xu thế trong những năm gần đây trên thế giới.
Việc đưa nội dung về lao động vào các FTA còn nhằm bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng giữa các bên trong quan hệ thương mại. Nếu một nước duy trì tiêu chuẩn lao động thấp, tiền lương và các điều kiện lao động không được xác lập trên cơ sở thương lượng, thì được cho là sẽ có chi phí sản xuất thấp hơn so với nước thực hiện những tiêu chuẩn lao động cao, dẫn tới cạnh tranh không bình đẳng.
Hơn nữa, việc nêu ra yêu cầu về phát triển bền vững, buộc các quốc gia phải nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất không chỉ nhìn ở lợi nhuận là sự gia tăng về giá trị, mà còn ở sự bảo vệ và tái tạo môi trường sống. Và để làm được các điều đó, buộc các quốc gia phải thể chế hóa để bảo đảm thực hiện các tiêu chuẩn lao động và môi trường. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với các quốc gia đi sau trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Ba là, tham gia các FTA thế hệ mới mở ra không gian phát triển mới với các quốc gia thành viên. Các FTA truyền thống với các nội dung được thỏa thuận, cam kết với các điều kiện giới hạn trong hội nhập, thông thường theo các quy chuẩn của WTO. Với các FTA thế hệ mới, không gian phát triển của các quốc gia có sự thay đổi về chất, các cơ hội phát triển được mở ra không chỉ về chiều rộng, mà còn cả về chiều sâu.
Do vậy, các quốc gia thành viên có nhiều lựa chọn trong không gian phát triển mới. Đây chính là cơ hội cho khởi nghiệp, cho sự phát triển sáng tạo các lĩnh vực, các ngành, nghề kinh doanh mới. Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa với các thành viên đi sau trong tiến trình phát triển.

Không gian phát triển mới được hiểu chính là mở rộng dư địa của các ngành, nghề hiện có, đồng thời mở ra các ngành, nghề và dịch vụ kinh doanh mới với những tiêu chuẩn mới. Không gian này, vì vậy, thúc đẩy đa dạng hóa, hợp lý hóa và hiện đại hóa cơ cấu xuất - nhập khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng. Không gian phát triển mới còn là sự gia tăng về không gian bố trí sản xuất, không chỉ trong phạm vi biên giới quốc gia, mà còn căn cứ vào nhu cầu thị trường thế giới. Các doanh nghiệp có thể tham gia và cần phải tham gia cơ cấu chuỗi sản xuất, mạng lưới sản xuất, trước hết là trong nội khu vực FTA.
Như vậy, tầm nhìn và không gian sản xuất của các doanh nghiệp, cũng như chiến lược phát triển của các quốc gia trong điều kiện thực thi các FTA, nhất là FTA thế hệ mới không chỉ bó hẹp trong phạm vi từng quốc gia. Chính không gian phát triển mới đặt yêu cầu mới trong tư duy, định hình chiến lược phát triển quốc gia mới phù hợp, hiệu quả trong bối cảnh thực thi các FTA thế hệ mới.

Bốn là, việc triển khai ký kết và thực hiện các FTA thế hệ mới một cách hiệu quả sẽ góp phần củng cố và bảo đảm an ninh kinh tế, nâng cao vị thế đối với các quốc gia thành viên. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, muốn bảo đảm an ninh kinh tế không chỉ chú ý các điều kiện của riêng mình, mà cần hài hòa, cùng hợp tác với các quốc gia khác. Nói cách khác, an ninh kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa là an ninh tương tác.
Do vậy, việc tăng cường liên kết với nhau là giải pháp hữu hiệu nhằm phòng, chống những cuộc khủng hoảng chu kỳ hoặc khủng hoảng cơ cấu, bảo đảm an ninh kinh tế, bền vững trong tăng trưởng. Hiện nay, việc chọn phương án ký kết các FTA được coi là bước đi hợp lý nhằm củng cố quan hệ giữa các nước và tiến tới sự hợp tác ở những cấp độ cao hơn, tạo tiền đề cho những giải pháp phòng, chống khủng hoảng khả thi hơn.

Nhìn chung, xét về quy mô và hiệu quả kinh tế hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát triển hiệu quả khi phát triển tách biệt. Do vậy, liên kết hợp tác dựa trên những cam kết có độ rộng và sâu là cơ sở bảo đảm vững chắc hơn đối với an ninh kinh tế. So với các FTA truyền thống, rõ ràng các FTA thế hệ mới là con đường hợp lý bảo đảm các điều kiện cho các quốc gia và doanh nghiệp tăng trưởng bền vững trong thế giới luôn biến động khó lường.

Tham gia các FTA thế hệ mới, thông qua liên kết khu vực, vị thế các nước nhỏ cũng được cải thiện thông qua vị thế chung của khối, bởi lẽ việc sát cánh bên nhau trong một FTA cũng là một phương cách hữu hiệu gia tăng sức mạnh đàm phán trên các diễn đàn thương mại khác nhau.
Mặt khác, việc hình thành các FTA có chuẩn mực cao, được dẫn dắt bởi những nền kinh tế lớn, cũng là cơ hội để các nước này khẳng định vai trò trong xây dựng và thiết lập trật tự khu vực, ảnh hưởng đến chiều hướng phát triển và cạnh tranh vị thế nước lớn trên trường quốc tế.

Với vai trò như trên, việc ký kết, triển khai các FTA thế hệ mới sẽ đưa lại nhiều cơ hội song cũng không ít thách thức với các quốc gia thành viên. Đó là những cơ hội và thách thức xung quanh mở rộng thị trường thương mại, đầu tư, lao động... đi liền với cạnh tranh gia tăng; đó là cơ hội và thách thức nâng cao chất lượng và hoàn thiện hệ thống quản trị quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh thể chế... Các cơ hội và thách thức đan xen và chuyển hóa nhau, chúng phụ thuộc vào trình độ phát triển, sự năng động và chủ động hội nhập trong tham gia các FTA của các quốc gia thành viên.