Ảnh hưởng của thuế giá trị gia tăng đến quy mô chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển


Dựa trên số liệu thu thập từ Ngân hàng Thế giới ở Chi Lê từ 1972 - 2015, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của thuế giá trị gia tăng (GTGT) đến quy mô chính phủ (đại diện bởi chi thường xuyên) và chi đầu tư phát triển trên dữ liệu chuỗi thông qua phương pháp tự hồi quy và phân phối trễ ARDL.

Thuế GTGT có quan hệ với chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Nguồn: internet
Thuế GTGT có quan hệ với chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Nguồn: internet

Kết quả nghiên cứu cho thấy, thuế giá trị gia tăng có tác động cùng chiều đến tỷ lệ chi thường xuyên trên GDP và có tác động ngược chiều đến tỷ lệ chi đầu tư phát triển, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ, một trong số nguồn thu ổn định và chiếm tỷ trọng lớn là thu từ thuế, trong đó thuế GTGT có quan hệ với chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Chi thường xuyên bao gồm chi cho các đơn vị sự nghiệp, chi cho các hoạt động quản lý nhà nước, chi cho hoạt động an ninh, quốc phòng và trật tự an toàn xã hội. Các hoạt động này đều gắn trực tiếp với nguồn thu thuế GTGT, làm tăng số thu thuế GTGT của chính phủ thông qua các hoạt động tiêu dùng của các đơn vị nhà nước, sự nghiệp. Ngoài ra, chi đầu tư phát triển cũng có ảnh hưởng đến nguồn thu thuế GTGT. Hoạt động giao thương mua bán sẽ diễn ra hiệu quả cả về số lượng lẫn chất lượng với một hệ thống cơ sở hạ tầng đảm bảo và ngày càng hoàn thiện. Hệ thống cơ sở hạ tầng là điều kiện tiên quyết và quyết định quan trọng đến sự phát triển của nền kinh tế ở một quốc gia. Do đó, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa thuế GTGT và quy mô chính phủ và chi đầu tư là vô cùng cần thiết.

Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu liên quan

Cơ sở lý thuyết

Lý thuyết công dân: Quy mô chính phủ tăng lên dựa vào nhu cầu của người dân.

Lý thuyết tăng trưởng của Wagner nhấn mạnh, tăng trưởng kinh tế là yếu tố quyết định cơ bản đến tăng trưởng khu vực công. Bên cạnh đó, lý thuyết của Meltzer và Richard (1983) xem xét quy mô chính phủ trên quan điểm chính phủ chủ yếu tập trung vào việc phân bổ tài sản và thu nhập một cách công bằng. Lý thuyết của Meltzer hàm ý, quy mô của chính phủ phụ thuộc vào mối quan hệ giữa thu nhập trung bình với thu nhập của cử tri quyết định. Các nghiên cứu về phân phối thu nhập cho thấy, những người có thu nhập thấp hơn thu nhập trung bình sẽ khuyến khích việc tái phân phối lại thu nhập để đảm bảo cân bằng thông qua một thuế suất cao hơn. Ngoài ra, việc mở rộng nhượng quyền thương mại đối với nhiều người có thu nhập dưới mức trung bình có nghĩa là tăng thu nhập để tái phân phối và do đó tăng quy mô chính phủ. Vì vậy, với một mức thuế suất cao hơn, vừa làm tăng chi tiêu cho khu vực công, phản ánh sự tăng trưởng của chính phủ. Từ đó tác giả đưa ra giả thuyết thứ 1: Thuế GTGT làm tăng tỷ lệ chi thường xuyên của Chính phủ so với GDP.

Lý thuyết lựa chọn công: Tập trung vào các ưu đãi của chính phủ hơn là công dân.

Buchanan (1976) - cha đẻ của lý thuyết lựa chọn công (đã đạt giải Nobel kinh tế năm 1986) cho rằng, sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế có hợp lý hay không phụ thuộc vào việc các quan chức bị thúc đẩy bởi lợi ích cá nhân hay bởi lợi ích xã hội. Hành động của các nhà lập pháp theo đuổi lợi ích công cộng nhưng họ sẽ quyết định sử dụng các nguồn lực của người khác, chứ không phải là của riêng họ. Người nộp thuế là người phải cung cấp các nguồn lực này và sẽ là những người bị thiệt hại khi các nguồn lực không được sử dụng hiệu quả. Buchanan cho rằng, nếu chi tiêu Chính phủ được thực hiện từ cấp địa phương thì sẽ hiệu quả hơn. Người dân có thể giám sát việc chi tiêu của chính quyền địa phương hiệu quả, chính xác hơn; Như vậy, theo lý thuyết lựa chọn công, việc chi tiêu của Chính phủ có thể không hiệu quả do lợi ích cá nhân gây ra. Do đó tác giả đề xuất giả thuyết thứ 2: Thuế GTGT làm giảm tỷ lệ chi đầu tư phát triển của Chính phủ so với GDP.

Các nghiên cứu liên quan

Dadgar, Y., Nazari, R., và Seyami araghi, I. (2013) nghiên cứu thuế tối ưu và chính phủ tối ưu trong nền kinh tế ở Iran. Nhóm tác giả sử dụng 2 yếu tố là tỷ lệ tiêu dùng trên GDP và tỷ lệ thuế trên GDP, thêm vào đó là sự phân tích cấu trúc của thuế và cấu trúc của chính phủ. Kết quả là quy mô của chính phủ tối ưu dựa vào chỉ số chi tiêu của chính phủ trên GDP vượt quá mức tối ưu trong khi nguồn thu từ thuế lại dưới mức tối ưu. Sự yếu kém trong điều hành đất nước là gốc rễ trong cấu trúc chính phủ. Do đó, việc thiết lập quy mô chính phủ tối ưu luôn phải nhất quán với hệ thống thuế tối ưu.

Đặc biệt, gần đây nhất, Mohammad Alizadeh (2016) nghiên cứu mối quan hệ giữa thuế GTGT và quy mô chính phủ, đại diện bởi chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển tại Iran. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tồn tại mối quan hệ đồng biến và có ý nghĩa cả trong ngắn hạn và dài hạn giữa thuế GTGT đến quy mô chính phủ và chi đầu tư phát triển. Trong đó hệ số tác động của thuế GTGT đến chi thường xuyên là thấp, hệ số tác động đến chi đầu tư phát triển là cao, cho thấy thuế GTGT không được dùng cho giáo dục và y tế (mặc dù đây là mục tiêu của việc thu thuế) mà chủ yếu dùng để đầu tư xây dựng. Nghiên cứu kiến nghị xây dựng một hệ thống thuế tự động báo cáo, minh bạch cao hơn để giảm gánh nặng thuế GTGT. Chính phủ nên chi nhiều hơn cho phúc lợi, y tế và giáo dục để giảm nghèo và cải thiện phúc lợi cho những người có thu nhập thấp.

Phương pháp và mô hình nghiên cứu

Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp tự hồi quy và phân phối trễ (ARDL) của Pesaran và cộng sự (1997). Cách tiếp cận này có nhiều cải tiến so với các phương pháp trước đây.

Dựa theo mô hình bài nghiên cứu gốc của M. Alizadeh và M. Motallabi (2016) nghiên cứu tác động của thuế GTGT đến quy mô chính phủ và chi đầu tư phát triển, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:

Mô hình 1: LCG = f(LVAT)

Mô hình 2: LDG = f(LVAT)

Với: LCG: logarit của chỉ số chi thường xuyên/GDP

LDG: logarit của chỉ số chi đầu tư phát triển/GDP

LVAT: logarit của thuế GTGT

Trình tự thực hiện nghiên cứu như sau:

Thứ nhất, kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu bằng phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị Dicky và Fuller (1981). 

Thứ hai, kiểm định đường bao theo phương pháp của Pesaran (1997) xác định đồng liên kết giữa các biến.

Thứ ba, chạy mô hình ARDL với các độ trễ tối ưu được xác định tự động theo tiêu chuẩn AIC để kiểm định mối quan hệ dài hạn giữa các biến trong mô hình.

Thứ tư, tính tác động ngắn hạn của các biến bởi mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) dựa trên cách tiếp cận ARDL đối với đồng liên kết.

Thứ năm, kiểm định mô hình theo các yếu tố:

- Kiểm định tự tương quan bậc 1: Phương pháp Durbin-Watson (1950) với giả thuyết: H0: Mô hình có tự tương quan bậc 1.

- Kiểm định tự tương quan bậc cao: Phương pháp Breusch-Godfrey (1978) với giả thuyết H0: Mô hình có tự tương quan.

- Kiểm định phương sai thay đổi: Phương pháp Breusch-Pagan (1979) với giả thuyết H0: Mô hình bị phương sai thay đổi.

- Kiểm định dạng sai của mô hình: Phương pháp kiểm định RESET của Ramsey (1968) với H0: Mô hình không phù hợp.

- Kiểm định đa cộng tuyến: Kiểm định hệ số VIF với giả thuyết VIF>10 thì mô hình bị đa cộng tuyến.

- Kiểm tra sự ổn định của mô hình: Sử dụng các tiêu chuẩn của CUSUM (cumulative sum of recurvive residuals) và CUSUMSQ (cumulative sum of squares of recurvive residuals).

- Kiểm định tính dừng của phần dư.

Dữ liệu, kết quả nghiên cứu

Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ dữ liệu của Ngân hàng Thế giới (WorldBank), tại quốc gia Chile, từ năm 1972 đến năm 2015.

Bảng 1: Kết quả tác động dài hạn

Mô hình

Biến

Hệ số tác động dài hạn

p-value

1

LCG

0,0600

0,031

2

LDG

-0,0666

0,031

 

Kết quả mô hình cho thấy, trong dài hạn, thuế GTGT có ảnh hưởng đáng kể đến biến tỷ lệ chi thường xuyên và chi đầu tư trên GDP. Cụ thể, thuế GTGT có tác động cùng chiều và có ý nghĩa đến tỷ lệ chi thường xuyên trên GDP. Điều này phù hợp với giả thuyết 1 và thuế GTGT có tác động ngược chiều và có ý nghĩa đến tỷ lệ chi đầu tư phát triển trên GDP. Kết quả này ủng hộ giả thuyết 2.

Bảng 2:  Kết quả tác động ngắn hạn

Biến

Mô hình 1 (∆LCG_CHLt)

Mô hình 2 (∆LDG_CHLt)

LCG_CHL(t-1)

-0,9080***

 

LDG_CHL(t-1)

 

-1,2804***

LVAT_CHLt

0,0545**

-0,0853**

∆LDG_CHL(t-1)

 

0,2895**

∆LVAT_CHLt

-0,1212

-0,2523

∆LVAT_CHL(t-1)

0,2161

0,4185

∆LVAT_CHL(t-2)

0,6344***

-0,7622***

∆LVAT_CHL(t-3)

 

-0,6106**

Cons

-0,6211**

0,9814**

EC_(t-1)

-0,9080***

-1,2804***

 

Kết quả mô hình 1 cho thấy, trong ngắn hạn và dài hạn, thuế GTGT đều có tác động cùng chiều và có ý nghĩa đến tỷ lệ chi thường xuyên trên GDP (hay quy mô Chính phủ), phù hợp với giả thuyết 1. Hệ số R2 hiệu chỉnh của mô hình là 53% thể hiện mô hình giải thích được 53% sự biến động của tỷ lệ chi thường xuyên trên GDP theo thuế GTGT.

Kết quả mô hình 2 cho thấy, trong ngắn hạn và dài hạn, thuế GTGT đều có tác động ngược chiều và có ý nghĩa đến tỷ lệ chi đầu tư phát triển trên GDP, phù hợp với giả thuyết 2. Hệ số R2 hiệu chỉnh của mô hình là 71% tức là mô hình giải thích được 53% sự biến động của tỷ lệ chi đầu tư phát triển trên GDP theo thuế GTGT.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Dựa trên kết quả nghiên cứu ở Chi Lê cho thấy, thuế GTGT có tác động cùng chiều và có ý nghĩa đến tỷ lệ chi thường xuyên trên GDP, và thuế GTGT có tác động ngược chiều đến tỷ lệ chi đầu tư phát triển. Kết quả này là hoàn toàn phù hợp với cơ sở lý thuyết đã trình bày và cho thấy, việc tăng thuế GTGT, tăng nguồn thu của Chính phủ sẽ giúp tăng chi thường xuyên, mở rộng quy mô Chính phủ, tăng chi cho bộ máy nhà nước, tăng chi cho giáo dục, y tế và các vấn đề phúc lợi an sinh xã hội. Đây là một mặt tích cực của việc tăng thuế GTGT.

Tuy nhiên, không như chúng ta kỳ vọng khi tăng thu thuế GTGT sẽ giúp tăng chi đầu tư phát triển, cải thiện cơ sở hạ tầng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Kết quả hồi quy cho thấy, giữa thuế GTGT và tỷ lệ chi đầu tư phát triển trên GDP tồn tại một mối quan hệ ngược chiều, cả trong ngắn hạn và dài hạn. Đây là vấn đề đã được nêu lên trong lý thuyết lựa chọn công của Buchanan (1976) khi các hoạt động của Chính phủ bị chi phối bởi lợi ích cá nhân.

Đây là vấn đề mà các quốc gia đang phải đối mặt. Việc tăng nguồn thu từ thuế GTGT đồng thời phải tăng cường công tác quản lý và sử dụng nguồn lực của Nhà nước một cách hiệu quả, tránh hiện tượng tham ô, lãng phí, sử dụng sai mục đích, thiếu hiệu quả.

Ở Việt Nam hiện nay, mức thuế suất GTGT vẫn chưa quá cao so với các nước trong khu vực. Vừa qua, Bộ Tài chính có đề xuất lộ trình tăng thuế GTGT như sau: chuyển một loạt hàng hoá từ không chịu thuế GTGT lên chịu thuế, những nhóm hàng đang áp mức 5% hiện tại lên 10% và tăng mức thuế thông thường từ ngày 1/1/2019, tăng thuế GTGT từ 10% lên 11%; từ ngày 1/1/2020, mức thuế này sẽ tăng từ 11% lên 12%. Như vậy, đến năm 2020, thuế GTGT sẽ tăng 20% so với hiện tại.

Trong điều kiện chi tiêu ngày càng gia tăng để đáp ứng nhu cầu chi cần tính đến tăng thuế là hợp lý. Tuy nhiên, tăng thuế sẽ tác động tăng giá hàng hóa, dịch vụ, nguy cơ gia tăng lạm phát, điều này sẽ tác động tới đời sống của người dân và nền kinh tế.

Chính vì thế, cần cân nhắc kỹ hơn về phương án tăng thuế GTGT, việc tăng cường cơ chế kiểm tra giám sát để sử dụng hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước là rất quan trọng.          

Tài liệu tham khảo:

  1. Alizadeh, M (2016). “Studying the effect of value added tax on the size of current government and construction government”. Procedia Economics and Finance, 336-344.
  2. Buchanan J (1967). Public Finance in Democratic Processes. Chapel Hill. NC: University of North Carolina Press;
  3. Dadgar (2013). Public sector economy. 3rd edition. Mofid University publication, Qom;
  4. Dadgar, Y., Nazari, R., và Seyami araghi, I. (2013). Government and optimized tax in public sector economy and function of government and tax in Iran. Journal of Applied economic studies, 5, 1 -29;
  5. Meltzer, and Richard S. (1983). Test of Rationality Theory of the Size of government. Carnegie Mellon University Press.