Báo cáo thẩm tra kế hoạch phát triển KT - XH năm 2012, tình hình triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển KT - XH năm 2013

(Tài chính) Báo cáo thẩm tra đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, tình hình triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 tại Kỳ họp thứ Năm, Quốc hội Khóa XIII do Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế Nguyễn Văn Giàu trình bày. FinancePlus.vn trân trọng đăng tải toàn văn báo cáo quan trọng này.

PHẦN I

ĐÁNH GIÁ BỔ SUNG KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2012

Theo Báo cáo đánh giá bổ sung của Chính phủ, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị chúng ta đã đạt những kết quả quan trọng trong việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012. Có 11/15 chỉ tiêu đạt và vượt Kế hoạch cao hơn số báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 (10/15), cán cân thương mại đã cải thiện rõ rệt, xuất siêu 780 triệu USD, cán cân thanh toán tổng thể thặng dư gần 9 tỷ USD đã góp phần tăng dự trữ ngoại hối; thị trường ngoại tệ và tỷ giá ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng tăng 6,81% thấp hơn nhiều so với mức tăng 18,13% năm 2011 và 11,75% năm 2010. Các lãi suất chủ chốt của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã được điều chỉnh giảm dần. Tăng trưởng lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt cao hơn so với Kế hoạch. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước gặp nhiều khó khăn nhưng kinh phí bố trí thực hiện các chính sách an sinh xã hội đạt 35,8% tổng chi NSNN, tăng 33,2% so với thực hiện năm 2011. Công tác đối ngoại tiếp tục được tăng cường, ngày càng khẳng định vai trò và vị thế của nước ta trong khu vực và trên thế giới. Quốc phòng, an ninh tiếp tục được củng cố, an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Lực lượng Công an đã tăng cường các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, điều tra, khám phá nhiều vụ án lớn, nghiêm trọng.

 Tuy nhiên, nền kinh tế đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn có mặt còn nghiêm trọng hơn so với năm trước. Tăng trưởng kinh tế cả năm chỉ đạt 5,03% là mức tăng chưa hợp lý, thấp hơn số báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 là 5,2% và thấp hơn nhiều so với Nghị quyết của Quốc hội tăng từ 6-6,5%. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cả năm 2012 dù tăng 7% so với năm trước nhưng chỉ bằng 28,5% GDP và thấp hơn so với Nghị quyết của Quốc hội là 33,5%, là năm có tỷ trọng vốn đầu tư so với GDP thấp nhất trong những năm gần đây. Tổng phương tiện thanh toán tăng 22,4% trong khi dư nợ tín dụng cả năm chỉ tăng 8,91%, nối tiếp đà sụt giảm mạnh dư nợ tín dụng từ tăng 31% năm 2010 xuống còn mức tăng 14,41% năm 2011.

Chỉ số hàng tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng; tồn kho bất động sản và nợ xấu vẫn ở mức cao. Khu vực doanh nghiệp, động lực chính tạo ra của cải, vật chất, việc làm gặp rất nhiều khó khăn. Số lượng doanh nghiệp giải thể, phá sản, ngừng hoạt động năm 2012 là 54.261 doanh nghiệp, cao hơn năm 2011. Đến hết năm 2012 cả nước có tới 69% số doanh nghiệp báo lỗ. Riêng thành phố Hà Nội có khoảng 46.000 doanh nghiệp trong tổng số khoảng 90.000 doanh nghiệp báo lỗ với số lỗ khoảng 47.000 tỷ đồng. Tình hình này đã tác động tiêu cực đến lao động, việc làm; số lao động đăng ký bảo hiểm thất nghiệp tăng.

Xuất siêu là một tín hiệu tốt, tuy nhiên phân tích tình hình xuất, nhập khẩu cho thấy thâm hụt thương mại với Trung Quốc lớn, có ý kiến cho rằng việc nền kinh tế chuyển nhanh từ trạng thái nhập siêu lớn trong nhiều năm sang xuất siêu trong khi cơ cấu giữa các khu vực kinh tế, cơ cấu ngành hàng và cơ cấu thị trường chưa được cải thiện nhiều, điều đó chưa hẳn là dấu hiệu tích cực hoàn toàn và chưa mang tính bền vững mà phản ánh một phần thực trạng đáng lo ngại là năng lực hấp thụ đầu vào của nền kinh tế đang bị suy yếu, sản xuất vẫn chưa phục hồi.

Giá gạo xuất khẩu giảm do nguồn cung gạo toàn cầu tăng và dự trữ gạo thế giới lớn. Chính sách mua tạm trữ lúa, gạo còn nhiều bất cập, gây bức xúc trong nông dân vì số lượng người được hưởng lợi trực tiếp còn ít, việc triển khai mua tạm trữ còn chậm, thời hạn thực hiện ngắn trong khi thời gian thu hoạch cao điểm ở các tỉnh chênh lệch nhau. Mặt khác, sự trao đổi, phối hợp giữa Hiệp hội lương thực Việt Nam và UBND các tỉnh, thành phố trong việc phân giao chỉ tiêu và tổ chức thu mua còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp không có mạng lưới thu mua trực tiếp từ nông dân mà thông qua các thương lái nên tình trạng ép giá vẫn xảy ra phổ biến.

Tổng thu NSNN tăng 2.690 tỷ đồng so với dự toán và tăng 1.690 tỷ đồng so với số báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, phần tăng thu chủ yếu từ dầu thô và viện trợ không hoàn lại. Thu nội địa và thu xuất, nhập khẩu giảm mạnh, nếu không có nguồn thu thêm từ hoạt động dầu khí thì ảnh hưởng lớn đến nhiệm vụ chi năm 2012. Có ý kiến cho rằng cần đánh giá thực chất bội chi ngân sách 4,8% GDP do đã ứng chi chưa bố trí được nguồn thu hồi 67.400 tỷ đồng hoặc phải chi nhưng chưa có nguồn như hoàn thuế VAT 33.500 tỷ đồng, cấp bù chênh lệch lãi suất tín dụng ưu đãi và phí quản lý đối với Ngân hàng Phát triển và Ngân hàng Chính sách xã hội 6.260 tỷ đồng. Như vậy, tuy một số chỉ tiêu của năm 2012 đạt Kế hoạch nhưng chưa thực chất và sẽ gây áp lực cho việc bố trí và điều hành ngân sách các năm sau.

Có ý kiến cho rằng lạm phát giảm mạnh trong năm 2012 nhưng thực tế có thể duy trì ở mức thấp hơn nếu thực hiện hợp lý lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ công đối với y tế và giáo dục; khi duy trì lạm phát ở mức thấp, ổn định sẽ cho phép có thể hạ lãi suất ngân hàng nhanh hơn. Cũng có ý kiến cho rằng việc chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp hơn so với kế hoạch đã ảnh hưởng tiêu cực đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Việc can thiệp thị trường bằng các công cụ hành chính trong một số thời điểm là cần thiết, trên thực tế đã phát huy tác dụng và mang lại nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên cần cân nhắc không để kéo dài, nhất là khi kinh tế vĩ mô đạt mức độ ổn định nhất định để tránh méo mó về các chính sách và phân bổ nguồn lực.

Vấn đề y đức, giá thuốc và quá tải bệnh viện tuyến trung ương vẫn là những vấn đề được dư luận xã hội quan tâm. Kinh tế và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi còn thiếu và yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Đời sống đồng bào dân tộc thiểu số và người lao động còn nhiều khó khăn, kết quả giảm nghèo thiếu bền vững, tỷ lệ hộ tái nghèo còn cao. Công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, phòng cháy, chữa cháy đã có chuyển biến nhưng chưa thật sự vững chắc. Việc kiểm soát kém hiệu quả nhập khẩu hàng mất an toàn vệ sinh thực phẩm, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng diễn ra trong nhiều năm qua đã tác động xấu đến sức khỏe người tiêu dùng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các doanh nghiệp sản xuất trong nước.

PHẦN II

TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013

Những tháng đầu năm 2013, xu hướng chung của các nền kinh tế vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc phục hồi đà tăng trưởng mặc dù tình hình các thị trường tài chính đã được cải thiện một bước. Cân bằng giữa hai mục tiêu tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô vẫn là thách thức chính sách của đa số các quốc gia. Hầu hết các khu vực kinh tế lớn đều áp dụng nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á được dự báo sẽ tăng trưởng cao hơn trong năm nay nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn. Lạm phát tại các quốc gia châu Á dù đang được kiểm soát ổn định nhưng áp lực lạm phát sẽ gia tăng lên khi hoạt động sản xuất, kinh doanh phục hồi cùng với dòng vốn đầu tư từ các nền kinh tế phát triển.

Triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, kinh tế 4 tháng đầu năm đạt được một số kết quả nhất định như Báo cáo Chính phủ đã nêu: lạm phát tiếp tục được kiềm chế; dự trữ ngoại hối tăng cao; tỷ giá ngoại tệ tương đối ổn định; xuất khẩu tăng trưởng khá, nhập khẩu thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất bắt đầu tăng trở lại. Các chính sách xã hội tiếp tục được quan tâm và triển khai kịp thời.

Tuy nhiên, đa số ý kiến cho rằng các nỗ lực thực hiện các giải pháp về chính sách và điều hành thời gian qua, những kết quả tích cực đạt được bước đầu vẫn chưa thể chuyển được xu thế khó khăn và đạt tăng trưởng kinh tế năm 2013 như mục tiêu đề ra; trong khi đó tái cơ cấu nền kinh tế chưa có những chuyển biến cụ thể, chuyển đổi mô hình tăng trưởng cũng chưa có một chương trình toàn diện theo ngành, vùng, lĩnh vực và đơn vị.

Tốc độ tăng trưởng GDP quý I/2013 tăng 4,89% có cao hơn quý I/2012 (tăng 4,75%) nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với quý I/2011 (tăng 5,53%) và quý I/2010 (tăng 5,84%). Tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp quý I/2013 chỉ đạt 4,93% là mức tăng thấp nhất so với quý I các năm 2010-2011-2012. Tốc độ tăng trưởng nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I chỉ đạt 2,24% là mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ một số năm gần đây. Xuất khẩu 4 tháng đầu năm của một số mặt hàng chủ lực như cà phê, cao su, thủy sản giảm so với cùng kỳ.

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tính theo giá thực tế tăng 5,5% so với cùng kỳ, nhưng nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì sụt giảm; vốn đầu tư phát triển toàn xã hội quý I đạt 29,6% GDP, cũng thấp hơn so với cùng kỳ của năm 2012 (36,2%). Cùng với việc nguồn vốn FDI và tín dụng cho nền kinh tế tăng thấp, nguồn lực cho tăng trưởng năm 2013 là rất khó khăn trong điều kiện hiệu quả đầu tư chưa thực sự cải thiện.

Về tái cơ cấu đầu tư công, nhiều ý kiến cho rằng hiện nay mới chỉ thực hiện theo Chỉ thị 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ thì không thể bao hàm đầy đủ toàn diện các nội dung; mặt khác dự án Luật đầu tư công chậm trình Quốc hội so với dự kiến và chuyển trình Quốc hội từ Kỳ họp thứ 4 lên Kỳ họp thứ 6.

Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, việc triển khai thực hiện chưa có tiêu chí phân loại theo ngành nghề, lĩnh vực hoặc theo các nhóm để có giải pháp tái cấu trúc đối với từng nhóm mà thực hiện ở từng doanh nghiệp, chủ yếu tập trung vào ngành nghề sản xuất, kinh doanh chính, chuyển giao nội bộ tập đoàn, tổng công ty hoặc giữa các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, chưa tạo ra động lực và áp lực để buộc các doanh nghiệp nhà nước đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ, ứng dụng khoa học - kỹ thuật, nâng cao trình độ quản trị, tính cạnh tranh, tính hiệu quả và phát triển bền vững. Đồng thời chưa ban hành hệ thống chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện tái cơ cấu, nhất là vấn đề xử lý các khoản lỗ, dôi dư cán bộ, người lao động.

Về tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, một số ý kiến cho rằng các ngân hàng đã triển khai có kết quả bước đầu tái cơ cấu theo Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhưng cần minh bạch thông tin đối với các ngân hàng, kể cả các ngân hàng thương mại hoạt động lành mạnh và các ngân hàng thương mại hoạt động yếu kém để minh chứng đã triển khai đúng hướng và không bị chi phối bởi nhóm lợi ích nhằm tăng lòng tin thị trường và xã hội. Về việc xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng, một số ý kiến đánh giá cao việc tăng cường trích lập dự phòng rủi ro giải quyết nợ xấu và đảm bảo mục tiêu an toàn tiền gửi cho người gửi tiền.

Điều hành thị trường vàng với một số kết quả ban đầu, nhưng còn nhiều luồng ý kiến khác nhau khi giá vàng trong nước và giá vàng thế giới còn chênh lệch ở mức cao, chưa đảm bảo giá vàng trong nước sát với giá vàng quốc tế như Nghị quyết của Quốc hội. Số liệu nợ xấu thông tin ra công chúng có lúc thiếu nhất quán cũng tạo hoài nghi, tác động tâm lý xã hội, thị trường. Công tác đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Tai nạn giao thông tuy có chiều hướng giảm về số vụ, nhưng số người chết vẫn tăng so với cùng kỳ. Tình hình dịch bệnh, thiên tai diễn biến phức tạp gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp. Tình trạng thiếu đói cục bộ xuất hiện ở một số địa phương, đáng chú ý là khu vực đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thực trạng quá tải tại các bệnh viện trung ương và bệnh viện các thành phố lớn vẫn còn cao, trong khi đó nhân lực tuyến y tế cơ sở vừa thiếu về số lượng, vừa hạn chế về chất lượng.  

Từ tình hình trên Ủy ban Kinh tế cho rằng nhiệm vụ trong những tháng còn lại của năm 2013 là hết sức nặng nề; vấn đề đặt ra là phải xử lý hài hòa và đảm bảo thực hiện cả hai mục tiêu tăng trưởng và kiềm chế lạm phát trong điều kiện nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn.

Đa số ý kiến cho rằng sau một thời gian dài kiểm soát tăng trưởng tín dụng để ưu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, nhiều doanh nghiệp đã ngừng sản xuất, giải thể, phá sản, một bộ phận lớn doanh nghiệp đang nỗ lực vượt qua thời điểm khó khăn nhưng không thể kéo dài tình trạng này hơn nữa. Cùng với yếu tố năng suất tổng hợp của nền kinh tế chậm cải thiện do quá trình tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng mới chỉ bắt đầu, nếu không sử dụng hợp lý các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng thì một mặt năng lực sản xuất của nền kinh tế chưa thể phục hồi nhanh, mặt khác sẽ gây áp lực lên lạm phát. Dự báo năm 2013 nền kinh tế chưa có thêm nhiều sản phẩm mới có khả năng đẩy mạnh xuất khẩu trong khi đó dự báo giá cả thế giới sẽ giảm so với năm 2012 nên kim ngạch xuất khẩu 2013 khó có sự bứt phá mạnh. Vì vậy, bên cạnh các giải pháp hỗ trợ sản xuất, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, các giải pháp đối với chính sách tài khóa, tiền tệ để kích thích tổng cầu cần được thực hiện ngay, việc linh hoạt các chính sách phải theo diễn biến và liều lượng thích hợp, kiên định và nhất quán với mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô. Một số ý kiến cho rằng, tổng cầu của nền kinh tế đang thấp, dự báo giá hàng hóa thế giới cũng không có biến động lớn, nên áp lực lạm phát năm 2013 là không cao. Do lạm phát đang có xu hướng giảm và mục tiêu lạm phát thấp hơn năm 2012 có khả năng đạt được nên trong những tháng còn lại của năm 2013 chính sách kinh tế vĩ mô nên ưu tiên mục tiêu tăng trưởng, phấn đấu đạt mức tăng trưởng kinh tế khoảng 5,5% như Nghị quyết của Quốc hội. 

Một số kiến nghị về nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới

Đa số ý kiến đề nghị cần quyết tâm cao tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết của Quốc hội được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 01/NQ-CP và 02/NQ-CP của Chính phủ; cơ bản tán thành với các nhóm nhiệm vụ, giải pháp bổ sung cần tập trung thực hiện trong những tháng còn lại của năm 2013 trong Báo cáo của Chính phủ, đồng thời đề nghị cần tập trung một số nhiệm vụ, giải pháp dưới đây:

1. Triển khai nhanh và đồng bộ các chính sách trong Nghị quyết số 01/NQ-CP và số 02/NQ-CP của Chính phủ, có các phương án tháo gỡ khó khăn cụ thể đối với doanh nghiệp. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành liên quan xây dựng phương án hoặc kế hoạch triển khai cụ thể về mục tiêu, chỉ tiêu, hạn định thời gian và các biện pháp mạnh hơn nhằm giảm hàng hóa tồn kho và giảm nợ xấu, các giải pháp cụ thể để doanh nghiệp có thể tiếp cận vốn vay với lãi suất hợp lý và các giải pháp hỗ trợ, khai thông thị trường bất động sản theo chủ trương đã ban hành. Tập trung mọi nỗ lực tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nông sản, thủy sản; nâng cao công tác dự báo tình hình sản xuất và sản lượng lúa, gạo để quyết định thời gian, khối lượng tạm trữ phù hợp, góp phần thúc đẩy việc tiêu thụ lượng lúa, gạo hàng hóa tại các địa phương đảm bảo cho người trồng lúa có lãi tối thiểu 30%. Các phương án và kế hoạch cụ thể cần được thông tin rộng rãi đến doanh nghiệp và người dân.

2. Rà soát lại tổng thể các dự án đầu tư công, đánh giá việc cắt giảm, dừng thi công để có điều chỉnh hợp lý, hạn chế gây ra tổn thất lớn và sự mất cân đối trong việc thực hiện đồng bộ quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của một số địa phương; đảm bảo bố trí đủ nguồn vốn để phát huy hiệu quả của dự án đầu tư sau khi rà soát; đẩy nhanh hơn nữa tốc độ giải ngân vốn đầu tư phát triển nhằm hỗ trợ tổng cầu của nền kinh tế; đồng thời có phương án xử lý nhanh các khoản nợ đọng, đặc biệt là nợ đọng đối với doanh nghiệp trong xây dựng cơ bản.

3. Thận trọng trong việc điều chỉnh chính sách thu NSNN, tránh giảm thu quá lớn; đồng thời cần đánh giá lại cơ cấu thu NSNN. Tiếp tục thực hiện hiệu quả việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong sinh hoạt, đời sống của nhân dân, trong chi tiêu ngân sách nhà nước, giảm hội họp, hạn chế tổ chức lễ hội, kỷ niệm thành lập ngành, cắt giảm các đoàn đi công tác nước ngoài bằng nguồn ngân sách, kể cả đối với các doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu nhà nước nắm quyền chi phối; đồng thời có biện pháp chế tài xử lý người đứng đầu khi vi phạm. Không ban hành chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách. Hạn chế tối đa việc ứng vốn đầu tư; các công trình, dự án vốn không hoàn trả trong năm phải được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Kiểm soát chặt chẽ chi dự phòng và các khoản chuyển nguồn.

4. Tiếp tục cụ thể hóa và tập trung thực hiện những chủ trương, những mục tiêu đã được xác định trong Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế, hướng tới tạo lập một hệ thống động lực khuyến khích mới để phân bổ lại nguồn lực hiệu quả, hợp lý và bền vững hơn. Sớm ban hành Đề án tái cơ cấu đầu tư công gắn với cải cách thể chế, đổi mới phân cấp quản lý kinh tế, quản lý ngân sách nhằm thay đổi rõ rệt phương thức phân bổ nguồn lực công, nâng cao hiệu quả đầu tư công. Rà soát, điều chỉnh các quy định về sở hữu của các tổ chức tín dụng, giám sát hiệu quả việc sáp nhập, hợp nhất, không gây xáo trộn trong hệ thống tổ chức tín dụng và đảm bảo an toàn tiền gửi của người gửi tiền; tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng trích đủ dự phòng rủi ro và đảm bảo nguồn tự xử lý nợ xấu phát sinh. Hoàn thiện thể chế, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý doanh nghiệp nhà nước, yêu cầu tất cả tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải công bố công khai, minh bạch thông tin như quy định đối với doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán. Hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

5. Tiếp tục quan tâm thực hiện các chính sách đảm bảo an sinh xã hội, tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, thực hiện điều chỉnh lương tối thiểu cho người lao động theo quy định của pháp luật lao động. Rà soát, sắp xếp lại hệ thống chính sách giảm nghèo hợp lý hơn, tiếp tục nghiên cứu cơ chế phối hợp liên ngành hoặc giảm đầu mối quản lý để tránh chồng chéo, lồng ghép chính sách hiệu quả hơn, đảm bảo mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo một cách thực chất và bền vững.

6. Nâng cao hiệu quả, chất lượng phục vụ của bộ máy chính quyền các cấp; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, giải quyết các vấn đề bức xúc xã hội, khiếu nại, tố cáo của công dân, nhất là các vụ khiếu nại, tố cáo liên quan đến vấn đề đất đai, tạo sự đồng thuận của nhân dân với những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

7. Tăng cường công tác phân tích, dự báo tình hình để có chủ trương, đối sách phù hợp, đặc biệt là các vấn đề biên giới, biển đảo, thực hiện các đề án, giải pháp đảm bảo an ninh, trật tự tại các vùng chiến lược. Có chính sách hỗ trợ đối với ngư dân đánh bắt cá xa bờ ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của nước ta. Tham gia tích cực, hiệu quả tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, góp phần ứng phó với các thách thức toàn cầu; đưa quan hệ giữa Việt Nam và các đối tác phát triển sâu rộng, hiệu quả hơn. Tăng cường công tác đảm bảo an ninh kinh tế, an ninh văn hóa, thông tin và đấu tranh phòng chống tội phạm; đẩy mạnh công tác quản lý trật tự, an toàn giao thông, công tác kiểm tra an toàn về phòng chống cháy nổ tại các địa bàn trọng điểm và khu vực đông dân, công tác phòng, chống dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm.