Cải cách quản lý hệ thống ngân hàng: Hai đề xuất chính

Tiến sĩ Lê Hồng Giang

Theo phân tích của tiến sĩ Lê Hồng Giang, ngoài biện pháp quản lý liên quan đến từng ngân hàng cũng cần phải điều chỉnh, phải có quản lý chung để tránh rủi ro cho toàn hệ thống, cũng như tách bạch hệ thống quản lý

Markus Brunnermeier và một nhóm tác giả vừa hoàn thành một báo cáo về các quy tắc quản lý hệ thống ngân hàng (The Fundamental Principles of Financial Regulation).

Quản lý vi mô: chưa đủ

Về cơ bản, các tác giả cho rằng, từ trước tới nay, các quy định quản lý ngân hàng chủ yếu là quản lý vi mô, ví dụ như tỷ lệ vốn trên tài sản (capital-asset ratio), tỷ lệ dự trữ bắt buộc (required reserve ratio). Điều này đúng và cần thiết, tuy nhiên chưa đủ. Một ngân hàng có thể an toàn về mặt vi mô, nhưng trong hoàn cảnh kinh tế vĩ mô bị khủng hoảng, thì các quy định vi mô có thể sẽ có hại cho toàn hệ thống.

Ví dụ tỷ lệ vốn trên tài sản, theo quy định của Basel II phải được tính theo nguyên tắc hiệu chỉnh theo mức độ rủi ro của tài sản, mà phổ biến nhất là dùng phương pháp đánh giá giá trị tài sản theo mức độ thua lỗ tối đa ở một xác suất cho phép (Value-at-Risk – VaR). Như vậy, khi tình hình thị trường xấu đi, thường sẽ làm tăng độ biến động xét trên độ cùng biến động của giá các loại tài sản khác nhau. Và như vậy, làm tăng VaR của tài sản trong hệ thống ngân hàng. Để đảm bảo quy định tỷ lệ vốn trên tài sản, các ngân hàng sẽ phải đồng loạt bán ra một phần tài sản, vừa đẩy giá của các tài sản đó sụt giảm thêm, vừa làm tăng tính không ổn định. Như vậy, hành động đúng về mặt vi mô của các ngân hàng, nếu bị buộc phải làm cùng lúc theo yêu cầu quản lý vi mô, sẽ làm tăng rủi ro cho toàn hệ thống.

Tương tự như vậy, quy định kế toán yêu cầu dùng giá thị trường để tính giá trị tài sản hiện có trong bảng cân đối tài sản (mark-to-market accounting) có mục đích giúp các ngân hàng định giá tài sản chính xác hơn khi thị trường thay đổi. Tuy nhiên, khi các ngân hàng đồng loạt loại bỏ (write-off) nợ xấu khỏi bảng cân đối và chấp nhận lỗ một lượng lớn tài sản, giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán sẽ đồng loạt giảm, ảnh hưởng lên bảng cân đối tài sản của các tổ chức tài chính, và cuối cùng sẽ quay lại làm giảm giá tài sản mà các ngân hàng phải tính lại giá trị tài sản theo giá thị trường. Hai ví dụ trên đây liên quan đến vấn đề ảnh hưởng theo vòng lặp (feedback loop), hay còn gọi là tương tác nội tại trong một hệ thống. Nếu chỉ xét từng ngân hàng riêng lẻ, thì không đối phó được với vấn đề này.

Nếu Việt Nam gia tăng quy định quản lý hệ thống ngân hàng, một hệ quả gần như chắc chắn là kinh doanh ngân hàng sẽ không còn hấp dẫn như trước đây vì lợi nhuận sẽ giảm. Sẽ giảm luôn giấc mơ thành lập ngân hàng của nhiều tổng công ty

Hai đề xuất chính

Một đề xuất quan trọng của báo cáo là cần có biện pháp hiệu chỉnh cách tính rủi ro cho từng ngân hàng, có tính đến mức độ rủi ro chung của thị trường. Nghĩa là ngoài các quản lý vi mô hiện tại, nên có thêm quản lý vĩ mô liên quan đến tình hình chung của thị trường. Ví dụ thay vì tính VaR theo cách thức truyền thống, có thể đưa thêm vào các hệ số có liên quan đến mức độ đòn bẩy tài chính, và độ chênh lệch đáo hạn của tài sản có và tài sản nợ của các ngân hàng.

Đề xuất quan trọng thứ hai là: hình thức thiết kế các cơ quan quản lý hệ thống ngân hàng. Nên có một cơ quan quản lý vĩ mô như ngân hàng trung ương và một cơ quan phụ trách vi mô. Ngoài ra, các tác giả đề xuất nên đưa thêm vào quy định quản lý những biện pháp mới, ví dụ tỷ lệ tối đa cho vay đầu tư địa ốc, hay các hình thức stress-test, một cách kiểm tra khả năng đứng vững của một ngân hàng khi các tình huống xấu nhất có thể xảy ra, cần thực hiện.

Nếu Việt Nam gia tăng quy định quản lý hệ thống ngân hàng, một hệ quả gần như chắc chắn là kinh doanh ngân hàng sẽ không còn hấp dẫn như trước đây vì lợi nhuận sẽ giảm. Tác dụng phụ này có thể sẽ làm các tổng công ty, tập đoàn lớn của Việt Nam từ bỏ giấc mơ có ngân hàng riêng của mình.