Cơ hội và thách thức của ngành Công nghiệp điện tử Việt Nam trong hội nhập

ThS. Lê Thanh Thủy - Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông 1

Việt Nam đang là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn FDI trong ngành Công nghiệp điện tử, song nước ta cũng đang vấp phải không ít thách thức như công nghiệp điện tử mới dừng ở mức độ gia công, doanh nghiệp điện tử trong nước chưa đóng góp nhiều trong chuỗi cung ứng hàng điện tử… Bài viết nhận diện những cơ hội và thách thức trước bối cảnh ngày càng hội nhập sâu rộng, qua đó giúp ngành Công nghiệp điện tử Việt Nam bứt phá và phát triển hiệu quả.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Thực trạng ngành Công nghiệp điện tử Việt Nam

Với lợi thế là dân số trẻ, gần 60% trong tổng dân số ở độ tuổi lao động (17-60 tuổi), nguồn lao động dồi dào, vị trí địa lý thuận lợi và nằm trong khu vực có nền công nghiệp phát triển nhanh và năng động, đặc biệt là đối với ngành Công nghiệp điện tử. Cho nên Việt Nam rất có cơ hội để thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ và học tập các kiến thức quản lý và đào tạo nhân lực từ các ngành Công nghiệp điện tử phát triển trong khu vực. Chi phí cho lao động ở Việt Nam cũng tương đối thấp. Cụ thể, chi phí hoạt động và giá thuê nhân công ở Việt Nam chỉ bằng 1/3 so với Ấn Độ và 1/2 so với Trung Quốc.

Bên cạnh đó, với đa dạng tài nguyên khoáng sản quan trọng cần thiết để phát triển công nghiệp vật liệu điện tử như quặng sắt, đất hiếm, titan, rutin, barit, ilmenit… Việt Nam hoàn toàn có khả năng để trở thành nhà cung ứng nguyên vật liệu, hóa chất cho ngành Công nghiệp điện tử của các nước dưới hình thức khai thác nguyên liệu thô, thành phẩm hoặc bán thành phẩm với giá rẻ. Đặc biệt, với dân số trên 90 triệu người, Việt Nam cũng là một thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng. Chính phủ Việt Nam luôn khuyến khích và hỗ trợ các công ty nước ngoài đầu tư và hợp tác với các doanh nghiệp (DN) Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ thông tin.

Tóm lại, những cơ hội cụ thể cho ngành Công nghiệp điện tử Việt Nam trong thời gian tới gồm:

Thứ nhất, khả năng xuất khẩu hàng hóa công nghệ thông tin, linh kiện điện tử của Việt Nam đang tăng cao. Từ ngày 1/1/2006, các cam kết của khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) về lộ trình giảm thuế đối với các mặt hàng điện tử đã có hiệu lực hoàn toàn. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và một loạt Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới (TPP, FTA EU-Việt Nam…) cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các DN ngành Công nghiệp điện tử phát huy tiềm năng to lớn đưa các sản phẩm vươn ra khu vực và thế giới. Trong thời gian qua, doanh số xuất khẩu mặt hàng điện tử, máy tính, điện thoại đầu tư lý tưởng của các tập đoàn lớn về công nghệ thông tin thế giới.

Thứ hai, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, góp phần tạo động lực cho sự phát triển kinh tế. Với một thị trường rộng lớn, nền kinh tế liên tục tăng trưởng khả quan, cùng với hệ thống chính trị ổn định, Việt Nam ngày càng trở thành điểm thu hút đầu tư lý tưởng của các tập đoàn lớn về công nghệ thông tin trên thế giới.

Được biết, các nhà đầu tư khi chọn địa điểm đầu tư thường căn cứ vào hai yếu tố chính, đó là giá thuê nhân công và thuế. Các nước đang phát triển vốn đã có lợi thế về giá thuê nhân công rẻ, khi tham gia vào WTO, cụ thể là Hiệp định Công nghệ thông tin (ITA) sẽ có thêm lợi thế về thuế suất đối với mặt hàng này, do vậy sức hút với các nhà đầu tư nước ngoài chắc chắn sẽ tăng rõ rệt, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các tập đoàn lớn trên thế giới. Đây cũng chính là cơ hội lớn nhất cho Việt Nam. Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay, lĩnh vực công nghiệp điện tử Việt Nam đã thu hút hơn 10 tỷ USD vốn FDI với các tên tuổi lớn như Samsung, Foxconn, LG, Panasonic, Intel, Electronics, Nokia… Sức hấp dẫn của công nghiệp điện tử Việt Nam hiện nay vẫn chính là các nhà máy sản xuất điện thoại di động quy mô lớn, trong đó Samsung là lớn nhất với hai nhà máy 2,5 tỷ USD ở Bắc Ninh và 2 tỷ USD ở Thái Nguyên.

Xuất nhập khẩu công nghệ thông tin
giai đoạn 2011-2013 (Triệu USD)

Xuất nhập khẩu
công nghệ thông tin

2011

2012

2013

Kim ngạch xuất khẩu linh kiện, sản phẩm, thiết bị phần cứng, máy tính, điện tử, viễn thông

10.893

22.925

34.670

Kim ngạch nhập khẩu linh kiện, sản phẩm, thiết bị phần cứng, máy tính, điện tử, viễn thông

10.465

19.442

26.390

Nguồn: Bộ Thông tin và Truyền thông

Thứ ba, giá các sản phẩm điện tử, viễn thông sẽ giảm nhiều khi gỡ bỏ hàng rào thuế quan và đây cũng là động lực phát triển nền công nghiệp điện tử, công nghiệp sản xuất thiết bị viễn thông.

Thứ tư, cơ hội cho các DN Việt Nam tiếp cận thị trường rộng lớn trong nước và quốc tế: Việt Nam đã gia nhập WTO với 150 nước thành viên (Chiếm hơn 90% dân số, 95% GDP, 95% giá trị thương mại toàn cầu); đã trở thành thành viên của Cộng đồng kinh tế ASEAN; đã và đang hoàn tất các Hiệp định Thương mại tự do mới như: TPP, FTA EU – Việt Nam...

Thứ năm, cơ hội đưa Việt Nam trở thành “công xưởng thứ hai của thế giới” khi một loạt tập đoàn điện tử, viễn thông lớn tuyên bố rút lui khỏi thị trường Trung Quốc, chuyển sang khu vực Đông Nam Á. Sự quan tâm và tăng cường đầu tư của ba quốc gia hàng đầu về công nghệ thông tin là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ tạo đà kéo theo nhiều nhà đầu tư khác tham gia vào công cuộc phát triển của Việt Nam…

Tuy nhiên, ngành Công nghiệp điện tử Việt Nam vẫn được đánh giá là ngành công nghiệp non trẻ. Hàng điện tử công nghiệp bao gồm các linh kiện điện tử và phụ tùng liên quan chiếm khoảng 3% sản phẩm điện tử và tin học. Sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài về kỹ thuật là thách thức lớn nhất đối với sự phát triển của công nghiệp điện tử Việt Nam. Nguồn nhân lực có khả năng thiết kế và thực hiện quy trình công nghệ vẫn là rào cản khó vượt qua. Khu vực tư nhân trong nước còn yếu, đầu tư nghiên cứu phát triển không đáng kể… Theo đó, những thách thức đặt ra cần sớm giải quyết là:

Một là, sức ép cạnh tranh ngay trên sân nhà: Đây là thách thức rất lớn đối với các DN Việt Nam. Năng lực cạnh tranh của các DN Việt Nam hiện nay còn yếu. Điều này thể hiện rõ ở quy mô vốn nhỏ, kinh nghiệm quản lý kinh doanh, công nghệ, trình độ cán bộ còn yếu, năng suất lao động thấp.

Hai là, áp lực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đang ngày càng đè nặng lên hệ thống đại học Việt Nam. Việt Nam chưa có được đội ngũ đủ mạnh để thích ứng với yêu cầu đi trước đón đầu công nghệ, trong khi, “chất xám” của các DN Việt Nam bị thu hút sang các công ty xuyên quốc gia.

Ba là, tầm và quy mô của DN Việt Nam ở sân chơi quốc tế hầu hết còn khá nhỏ. Sự thay đổi về cơ cấu sản phẩm từ “cứng” sang “mềm” cũng là thách thức rất lớn đối với DN sản xuất thuộc lĩnh vực Công nghiệp điện tử.

Bốn là, khi hội nhập các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu quan tâm vào lĩnh vực dịch vụ, sẽ ít DN quan tâm tới sản xuất thiết bị. Các nhà sản xuất trong nước vẫn có cơ hội phát triển, tuy nhiên, họ sẽ gặp thách thức lớn nhất là phải cạnh tranh về giá với hàng nhập khẩu. Không lâu nữa, thuế nhập khẩu thiết bị toàn bộ chỉ ngang bằng hoặc thấp hơn nhập linh kiện, chưa kể đến những thách thức khi Việt Nam tham gia Hiệp định Công nghệ thông tin mở rộng, do vậy lợi nhuận sản xuất công nghiệp còn rất thấp.

Đề xuất, khuyến nghị

Xu thế hội tụ công nghệ thông tin viễn thông diễn ra mạnh mẽ và rõ nét trong giai đoạn vừa qua cho thấy, giá trị sản phẩm điện tử sẽ ngày càng tập trung vào tính thông minh, nhỏ gọn, tiết kiệm năng lượng và kết nối được với nhau.

Để hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu và đuổi kịp các quốc gia tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần chuyển từ việc cạnh tranh về chi phí nhân công thấp và khai thác tài nguyên thiên sang cạnh tranh về lợi thế so sánh trong các hàng hóa và dịch vụ dựa trên tri thức và có giá trị gia tăng cao hơn. Khả năng cạnh tranh phải dựa trên sự đổi mới không chỉ ở khía cạnh công nghệ mà còn bao gồm những cải tiến đối với quy trình sản xuất và sản phẩm, tinh thần DN, hệ thống giáo dục, các thể chế thân thiện với thị trường và khả năng quản lý đúng đắn nền kinh tế vĩ mô.

Muốn vậy, Nhà nước cần có sự đột phá trong điều hành thực hiện các giải pháp, chính sách đầu tư xây dựng lực lượng nhân lực chất lượng cao, các phương tiện phục vụ cho hoạt động nghiên cứu phát triển các sản phẩm điện tử trọng điểm có tính chiến lược quốc gia, đẩy mạnh thực hiện mua và chuyển giao công nghệ… phục vụ chiến lược công nghiệp hóa nói chung và phát triển ngành Công nghiệp điện tử Việt Nam nói riêng.

Trước mắt, tích cực triển khai thực hiện Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ; rà soát và bổ sung các chính sách ưu đãi để khuyến khích, thu hút đầu tư vào sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển thuộc ngành Công nghiệp điện tử. Rà soát bổ sung và hoàn chỉnh các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ngành Công nghiệp điện tử. Trên cơ sở đó, xây dựng quy định áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật này trong việc sản xuất nhằm nâng cao chất lượng và đảm bảo uy tín của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong ngành Công nghiệp điện tử của Việt Nam.

Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng cho lĩnh vực công nghiệp điện tử. Khuyến khích áp dụng mô hình đào tạo liên kết 3 bên (doanh nghiệp – viện, trường – cơ quan quản lý Nhà nước) để đào tạo nguồn nhân lực tay nghề cao theo yêu cầu của DN. Xây dựng các chương trình liên kết, kênh thông tin giữa các DN quốc tế với các DN công nghiệp hỗ trợ trong nước nhằm góp phần tích cực đẩy mạnh đầu tư và chuyển giao công nghệ, mô hình quản lý, nghiên cứu – phát triển sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong ngành Công nghiệp điện tử.

Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào ngành Công nghiệp điện tử với các quy mô, loại hình khác nhau, từ lắp ráp thành phẩm đến sản xuất linh kiện, phụ tùng và các sản phẩm phụ trợ, trong đó đặc biệt chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài từ các tập đoàn đa quốc gia. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất phát triển điện tử chuyên dùng, bao gồm sản xuất sản phẩm, linh kiện, phụ tùng và sản phẩm phụ trợ cho các lĩnh vực tin học, viễn thông, điện tử y tế, điện tử công nghiệp, cơ điện tử, đo lường, tự động hóa.

Đồng thời, phát triển mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu cho ngành Công nghiệp điện tử. Đối với thị trường trong nước: Tăng cường công tác khảo sát, đánh giá nhu cầu về sử dụng sản phẩm ngành Công nghiệp điện tử trong cơ quan Nhà nước, DN và xã hội. Xây dựng cơ chế khuyến khích các tổ chức, cơ quan Nhà nước sử dụng các sản phẩm điện tử sản xuất trong nước; Đối với thị trường xuất khẩu: Xây dựng chương trình quảng bá hình ảnh sản phẩm điện tử “an toàn, chất lượng cao” có xuất xứ tại Việt Nam tại các thị trường nước ngoài.

Tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế, xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường độc lập hoặc trong khuôn khổ Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Hỗ trợ các DN thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện của DN hoặc các trung tâm thương mại ở nước ngoài để tìm hiểu về nhu cầu, thị hiếu của thị trường, quảng bá sản phẩm, thương hiệu và ký kết hợp đồng, tổ chức tiêu thụ sản phẩm.

Bên cạnh đó, nỗ lực thu hút đầu tư các DN điện tử hàng đầu trên thế giới thông qua việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư để thu hút các DN điện tử hàng đầu trên thế giới và DN vệ tinh liên quan đầu tư tại Việt Nam. Hỗ trợ thu hút và triển khai các dự án đầu tư FDI lớn trong ngành Công nghiệp điện tử.

Ngoài ra, tập trung phát triển các sản phẩm trọng điểm trong ngành Công nghiệp điện tử. Xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất các sản phẩm điện tử ưu tiên phát triển quy định tại Quyết định số 49/2010/QĐ-TTg ngày 19/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Xây dựng chính sách thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đẩy nhanh ứng dụng công nghệ cao ngành Công nghệ điện tử trên cơ sở liên kết giữa Nhà nước – DN – cơ sở đào tạo khuyến khích thông qua hình thức hợp tác công – tư. Đặc biệt, hình thành các cụm công nghiệp điện tử, thúc đẩy sự quy tụ, đầu tư của các DN nhằm tạo ra sự liên kết, nâng cao hiệu quả hoạt động của các DN điện tử…

Với việc hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng, thuế quan giảm xuống 0%, sản xuất trong nước sẽ đứng trước sức ép cạnh tranh với hàng nhập khẩu nguyên chiếc, bởi người tiêu dùng khi đó được tiếp cận với sản phẩm nhập ngoại có mức giá rẻ hơn so với sản xuất trong nước. Do đó, thời gian tới đòi hỏi Nhà nước cần sớm triển khai những nội dung trên một cách mạnh mẽ và kịp thời; các DN Việt Nam cũng cần có sự chuẩn bị về năng lực cạnh tranh và công nghệ để có thể tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu và góp phần thực chất đưa Việt Nam thành một nước sản xuất lớn về thiết bị điện tử vào năm 2030.

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Thành Hưng, Xây dựng Việt Nam thành một nước sản xuất lớn về thiết bị điện tử vào năm 2030. Bộ Thông tin và Truyền thông, 2014;

2. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: Việt Nam trở thành một trung tâm chế biến, chế tạo mới của thế giới sau năm 2015. Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 2015;

3. Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ.