Đầu tư công và vai trò giám sát của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu quốc hội

Ths. Nguyễn Hữu Quang - Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách

Tái cơ cấu đầu tư công là một trong ba trọng tâm, có vai trò quan trọng, là đòn bẩy và là nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho đầu tư từ các khu vực còn lại phát huy hiệu quả cao thông qua việc xây dựng kết cấu hạ tầng, hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội. Mục tiêu của tái cơ cấu đầu tư công nhằm hoạch định chiến lược đầu tư công và triển khai thực hiện chiến lược đó một cách hiệu quả nhất trên cơ sở nguồn lực Nhà nước bị giới hạn. Để đạt được mục tiêu trên có nhiều vấn đề phải giải quyết trong đó có việc tiếp tục hoàn thiện thể chế để nâng cao chất lượng quản lý nhà nước nói chung, hiệu quả quản lý đầu tư công nói riêng; đặc biệt là nâng cao vai trò của các cơ quan quốc hội (QH) và đại biểu quốc hội (ĐBQH) trong giám sát đầu tư công.

Đầu tư công và vai trò  giám sát  của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu quốc hội
Ảnh minh họa.Nguồn:Internet

Điều 84 của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 quy định quyền hạn của QH là: quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế. Như vậy, QH chỉ quyết định phân bổ, sử dụng các nguồn vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, và trên thực tế, trong thời gian vừa qua, QH chỉ quyết định các khoản chi tiêu từ nguồn vốn NSTT, vốn trái phiếu Chính phủ; còn lại các nguồn vốn viện trợ không hoàn lại, vốn vay ODA, vốn từ các quỹ tài chính Nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)... giao Chính phủ quyết định, QH chỉ giám sát hiệu quả sử dụng các nguồn vốn này khi cần.

Về đầu tư từ nguồn vốn ngân sách tập trung hàng năm, nguồn vốn này hướng vào đầu tư không hoàn lại cho các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường mà không có khả năng thu hồi vốn hoặc thu hồi vốn rất chậm, cũng như các khoản đầu tư duy tu bảo dưỡng các công trình công cộng của các bộ, ngành và địa phương. Đối với một số dự án có thể tạo được nguồn thu khi đi vào hoạt động nhưng không có khả năng hoàn trả đầy đủ vốn đầu tư, thì nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước (NSNN) sẽ đóng vai trò hỗ trợ một phần cho đầu tư. Có thể nói, nguồn vốn từ NSNN là nguồn chi đầu tư công chủ đạo, là nguồn kinh phí để bảo đảm cơ bản các hoạt động đầu tư của các bộ, ngành, địa phương.

Trong giai đoạn vừa qua, việc bố trí vốn đầu tư phát triển vẫn chưa có sự đột phá, chưa thực sự ưu tiên cho các dự án về hạ tầng kinh tế trọng điểm, ảnh hưởng quyết định đến phát triển kinh tế đất nước; vẫn bố trí một cách dàn trải, trải đều trên tất cả các lĩnh vực; trong mỗi lĩnh vực lại trải đều trên tất cả các địa bàn trong cả nước, dẫn đến việc triển khai nhiều dự án, nhiều công trình nhưng khả năng đáp ứng vốn để hoàn thành không được bảo đảm, dự án công trình chậm tiến độ, kéo dài gây nhiều lãng phí. Các chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) là những chương trình sử dụng vốn đầu tư từ NSNN, đã góp phần tích cực thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; xóa đói giảm nghèo, góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc ở một số ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, Chính phủ vẫn chưa đánh giá cụ thể, chính xác hiệu quả kinh tế - xã hội, kết quả đầu tư mang lại từ các CTMTQG. Kết quả đạt được của nhiều CTMTQG chưa tương xứng với nguồn vốn đầu tư từ NSNN và các nguồn vốn khác. Nhiều CTMTQG chưa xác định được mục tiêu, nguồn lực và thời gian thực hiện. Một số nhiệm vụ thường xuyên của bộ, ngành, địa phương được đưa vào nội dung của chương trình, do đó tỷ lệ chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn so với chi đầu tư. Kinh phí thực hiện CTMTQG chủ yếu vẫn là từ ngân sách Trung ương, còn các nguồn vốn khác huy động thường không đạt dự kiến đã làm hạn chế kết quả của chương trình.

Về đầu tư từ nguồn vốn vay, chúng ta hiện có đầu tư từ vốn trái phiếu Chính phủ (TPCP), vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), đầu tư của các DNNN và đầu tư từ tín dụng Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì đầu tư từ những nguồn vốn vay này đều có điểm hạn chế. Đơn cử với vốn TPCP, đây là nguồn vốn vay trong nước để đầu tư cho phát triển, theo một số mục tiêu nhất định và sẽ hoàn trả từ ngân sách sau một thời gian nhất định. TPCP được phát hành cho mục đích đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách Trung ương theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn 2003 - 2010 đầu tư từ nguồn vốn TPCP cho các dự án, công trình với tổng vốn đầu tư đã bố trí là 236.770 tỷ đồng, đến hết năm 2010 giải ngân 171.880 tỷ đồng; đã có 1.952 dự án và tiểu dự án được hoàn thành đưa vào sử dụng, góp phần giải quyết yêu cầu cấp bách của địa phương, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh quốc phòng ở các địa bàn còn nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc quản lý và sử dụng vốn TPCP còn nhiều bất cập. Nguyên nhân được xác định là do chưa có các nguyên tắc, tiêu chí các công trình, dự án sử dụng vốn TPCP nên vẫn còn tình trạng xin – cho các công trình sử dụng vốn TPCP. Chất lượng công tác quy hoạch ở một số ngành, lĩnh vực còn nhiều hạn chế, thiếu tầm nhìn dài hạn, việc thực hiện quy hoạch chưa nghiêm túc nên ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. Một sốë dự án có khả năng bảo đảm tiến độ thực hiện hoặc khốëi lượång hoàn thành cao nhưng lại bốë trí lượng vốën rất thấp, làm chậm tiến độ hoàn thành gây lãng phí vốn. Việc huy động vốn thông qua kênh phát hành TPCP gặp nhiều khó khăn, nguồn huy động chủ yếu là từ các tổ chức tín dụng trong nước, chưa huy động được sức dân và sự đóng góp của các thành phần kinh tế khác. Và việc chưa đưa vốn TPCP vào trong cân đối NSNN cũng là một nguyên nhân gây ra hiệu quả sử dụng vốn TPCP chưa cao do còn có một khoảng trống lớn về cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn. Việc cho phép các địa phương tự quyết định, điều chỉnh quy mô, tổng mức đầu tư cũng như việc Chính phủ liên tục trình QH bổ sung danh mục mới hàng năm đã làm nhu cầu sử dụng vốn TPCP tăng quá cao so với khả năng cân đối của NSNN và sức chịu đựng của nền kinh tế, dẫn đến không đủ nguồn lực tài chính để đáp ứng nhu cầu nên nhiều dự án kéo dài, lãng phí, kém hiệu quả.

Hoạt động đầu tư công trong những năm vừa qua có một vị trí, vai trò rất quan trọng, giữ vai trò chủ đạo và góp phần thu hút được nhiều nguồn lực trong nước và ngoài nước cho đầu tư phát triển, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, thay đổi diện mạo của đất nước, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng sống và phúc lợi cho nhân dân, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Song, hoạt động đầu tư công đang tồn tại nhiều bất cập, từ công tác quy hoạch đầu tư phát triển đến công tác quản lý, triển khai thực hiện đầu tư, công tác huy động và phân bổ, giám sát sử dụng vốn đầu tư... Tất cả những tồn tại nêu trên đã làm cho bức tranh đầu tư công manh mún, dàn trải, nguồn lực nhà nước bị phân tán... nên hệ số ICOR có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây.

Những hạn chế trong hoạt động đầu tư công cụ thể là một số quy hoạch chưa có tính khả thi cao, còn mang tính chủ quan, chưa phù hợp với khả năng huy động nguồn lực; giám sát thực hiện quy hoạch chưa nghiêm từ phía các cơ quan quản lý nhà nước; thiếu các quy định cụ thể về chế tài kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả và trách nhiệm trong công tác quy hoạch đầu tư.

Tình trạng khép kín trong đầu tư công đã kéo dài trong nhiều năm và chậm được khắc phục. Vốn đầu tư công được phân giao cho các bộ, ngành, địa phương và các bộ, ngành, địa phương hầu như khép kín trong việc xây dựng, thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện đầu tư mà thiếu đi sự tham gia góp ý, phản biện, giám sát của bên ngoài. Do còn tình trạng khép kín trong đầu tư công nên chưa có sự phối hợp cao nhất giữa các ngành, lĩnh vực, địa phương; chưa tạo được liên kết vùng để nâng cao hiệu quả đầu tư.

Việc thực hiện phân cấp mạnh đã tạo chủ động cho các địa phương, các DNNN trong công tác đầu tư để giải quyết những vấn đề cấp bách của địa phương, của doanh nghiệp nhưng thiếu chế tài kiểm tra, giám sát và ràng buộc trách nhiệm liên quan đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đã dẫn tới tình trạng quyết định đầu tư, điều chỉnh quy mô đầu không thực sự dựa trên nhu cầu, không tính đến khả năng cân đối vốn nên đầu tư bị phân tán, dàn trải, kéo dài thời gian thi công gây lãng phí, thất thoát nguồn lực tài chính của Nhà nước.

Bộ máy quản lý đầu tư công còn cồng kềnh; năng lực quản lý, điều hành, tham mưu của đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng quy hoạch, triển khai, giám sát thực hiện đầu tư ở Trung ương và địa phương còn hạn chế; chất lượng thi công các dự án đầu tư công thấp, tiêu cực tham nhũng trong đầu tư công còn phổ biến nên hiệu quả của việc sử dụng vốn trong đầu tư công bị giảm sút.

Thiếu cơ chế giám sát hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công từ ngân sách Trung ương cấp cho địa phương. Các dự án cấp địa phương thì khâu giám sát thuộc về HĐND các cấp. Do các cơ quan phê duyệt, thực hiện và giám sát đều trực thuộc địa phương, đặc biệt các đại biểu HĐND lại không phải là đại biểu chuyên trách, cũng không có các cơ quan trợ giúp hữu hiệu nên khả năng giám sát có phần bị hạn chế.

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên, trước hết do xuất phát điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta còn thấp, hạ tầng cơ sở còn nghèo nàn, lạc hậu... nên nhu cầu vốn đầu tư lớn, trong khi khả năng nguồn lực đáp ứng cho nhu cầu đầu tư của Nhà nước và toàn xã hội còn hạn chế. Do cùng lúc triển khai xây dựng nhiều công trình dự án dẫn đến nhiều công trình không được bảo đảm đủ vốn, thời gian xây dựng kéo dài, chậm đưa vào khai thác. Do tác động của khủng hoảng, suy thoái kinh tế trong khu vực và trên thế giới, trong nước tình hình lạm phát cao, Nhà nước phải thực hiện một số chính sách trong đó có việc cắt giảm đầu tư công... nên việc huy động nguồn lực để đầu tư công những năm qua còn gặp nhiều khó khăn.

Ngoài ra, nguyên nhân chủ quan dẫn tới những hạn chế nêu trên là chậm đổi mới tư duy phát triển, vẫn còn tư duy nhiệm kỳ, tư duy theo địa giới hành chính dẫn đến đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm. Chậm thay đổi quan điểm đầu tư công, vì cho rằng trong đầu tư công, đặc biệt là đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng vẫn phải dựa vào NSNN là chủ yếu, Nhà nước đầu tư trực tiếp là chính, chưa có các cơ chế chính sách đột phá để thu hút các nguồn lực ngoài Nhà nước tham gia vào lĩnh vực đầu tư công. Nhận thức của chính quyền địa phương về vai trò, trách nhiệm của mình trong đầu tư công chưa cao, vẫn còn tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà nước, chưa làm hết trách nhiệm đối với đồng vốn đầu tư công được Nhà nước giao. Đến thời điểm hiện nay, chưa có một văn bản luật thống nhất về đầu tư công làm cơ sở pháp lý triển khai thực hiện và quản lý đầu tư sử dụng vốn nhà nước. Năng lực, trách nhiệm, phẩm chất của người quyết định, quản lý, thực hiện, giám sát đầu tư công có nơi còn yếu kém nên còn để xảy ra tham nhũng, lãng phí, thất thoát vốn nhà nước. Công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm chưa thường xuyên, kịp thời, chưa nghiêm nên chưa có tác dụng răn đe, phòng ngừa, hạn chế các vi phạm trong việc sử dụng vốn đầu tư công.

Để khắc phục tình trạng nêu trên cần có các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công. Thứ nhất là giải pháp về xây dựng hệ thống pháp luật đầu tư công, trong đó bao gồm việc hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan đến đầu tư công, trong đó có Hiến pháp, Luật Ngân sách nhà nướác quy định các nguồn lực huy động cho đầu tư công, ngoài nguồn lực của Nhà nước khuyến khích sự tham gia của các nguồn lực xã hội. Điều 15 và Điều 19 của Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với xu hướng này. Sớm ban hành Luật Đầu tư công, Luật Quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Sửa đổi, bổ sung các luật khác có liên quan đến đầu tư công như Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng... nhằm bảo đảm tính thống nhất, chặt chẽ và chuẩn mực trong việc quản lý hoạt động đầu tư công. Cần luật hóa quy chế sử dụng các quỹ tài chính Nhà nước như Quỹ sắp xếp đổi mới doanh nghiệp, Quỹ tích lũy trả nợ nước ngoài, Ngân hàng phát triển Việt Nam…, và quản lý sử dụng các quỹ như quản lý sử dụng NSNN, vì thực chất nguồn vốn hình thành các quỹ này là từ NSNN hoặc có nguồn gốc từ NSNN. Xây dựng và ban hành hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả tổng hợp, hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và tác động đến môi trường đối với các dự án đầu tư công. Hệ thống tiêu chí (định tính và định lượng) phải cụ thể, là cơ sở để sắp xếp thứ tự ưu tiên các dự án đầu tư cũng như việc thẩm định, quyết định, kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả của các dự án đầu tư công.

Thứ hai là giải pháp về cơ cấu đầu tư công, cơ cấu lại nguồn vốn đầu tư công theo hướng giảm dần đầu tư từ NSNN thông qua các cơ chế PPP, BOT, BT… để thu hút nguồn lực ngoài Nhà nước tham gia vào hoạt động đầu tư công. Cơ cấu lại danh mục ưu tiên đầu tư công để trong khả năng tổng nguồn vốn đầu tư công còn hạn chế tập trung nguồn lực cho các ngành, vùng, lĩnh vực then chốt, có sức lan tỏa cao trong việc phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân. Tổng kết rút kinh nghiệm về việc phân cấp quyết định, quản lý đầu tư công để điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư giữa Trung ương và địa phương, giữa các ngành kinh tế, các vùng miền để tránh manh mún, phân tán, dàn trải, cục bộ trong đầu tư công.

Thực tế thời gian qua cho thấy, QH thông qua các cơ quan chuyên môn của mình mới chỉ giám sát đầu tư công ở cấp độ vĩ mô, chưa vào sâu được tới việc thực hiện các dự án, công trình cụ thể. Công tác giám sát đầu tư công cũng như chấp hành dự toán NSNN ở các bộ, ngành Trung ương và địa phương được QH giao cho UBTVQH, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của QH, các Đoàn ĐBQH và các ĐBQH nhưng việc tiến hành giám sát còn chưa được thường xuyên, phạm vi giám sát rộng, đội ngũ cán bộ giúp việc chưa đáp ứng yêu cầu nên chất lượng giám sát chưa cao.

Việc không ngừng nâng cao vai trò và thẩm quyền của QH, các cơ quan của QH, các Đoàn ĐBQH và các ĐBQH trong giám sát đầu tư công là rất quan trọng nhằm sử dụng có hiệu quả, công bằng nguồn vốn đầu tư công, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Làm tốt vai trò giám sát của QH, ĐBQH sẽ có tác dụng nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong việc sử dụng tài chính công.

Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này cần thiết phải đổi mới quy trình giám sát, đổi mới cơ chế cung cấp thông tin để cơ quan giám sát được cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời, chứ không chỉ dựa vào báo cáo của các bộ, ngành, địa phương như hiện nay. Quy hoạch, chiến lược tổng thể đầu tư công trong trung hạn, dài hạn, hay trong từng giai đoạn phát triển của đất nước cần được QH thông qua để bảo đảm cân đối giữa nhu cầu đầu tư và nguồn lực, bảo đảm sự đầu tư và phát triển cân đối giữa các vùng, miền, các địa phương. Tăng cường về số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ chuyên gia giúp việc cho QH, ĐBQH trong việc thực hiện chức năng giám sát đầu tư công; có chế tài cụ thể để yêu cầu các đơn vị được giám sát thực hiện các kết luận sau giám sát.

QH, ĐBQH có toàn quyền thực hiện giám sát đầu tư công

 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001, khoản 4 Điều 84 quy định QH quyết định ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương. Luật Tổ chức QH (năm 2001), Điều 1 quy định, QH quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân”. Điều 2 của Luật cũng quy định, QH quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán NSNN và phân bổ ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết toán NSNN.

Luật Hoạt động giám sát của QH (năm 2003) quy định chức năng giám sát của QH. Theo đó, QH thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, QH thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại các kỳ họp QH, thông qua hoạt động giám sát của UBTVQH, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của QH, Đoàn ĐBQH và ĐBQH.

Luật Quản lý nợ công (năm 2009) quy định QH quyết định mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công trong từng giai đoạn 5 năm nhằm bảo đảm chỉ tiêu an toàn về nợ. Quyết định tổng mức, cơ cấu vay và trả nợ hàng năm của Chính phủ gắn với dự toán NSNN. Quyết định chủ trương đầu tư đối với các dự án, công trình quan trọng quốc gia từ nguồn vốn vay của Chính phủ. Giám sát việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và quản lý nợ công.

Luật Ngân sách nhà nước năm 2002, Điều 15 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của QH đối với NSNN bao gồm: quyết định dự toán NSNN chi tiết theo các lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ và viện trợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, dự phòng ngân sách; quyết định các dự án, các công trình quan trọng quốc gia được đầu tư từ nguồn NSNN; giám sát việc thực hiện NSNN, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, nghị quyết của QH về NSNN...

 Ngoài ra, hoạt động giám sát của QH còn được thực hiện dựa trên quy định một số luật chuyên ngành như Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng...

Những quy định của pháp luật nêu trên cho thấy, QH, ĐBQH có toàn quyền thực hiện giám sát đầu tư công.