Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ công của Việt Nam

TS. Trần Ngọc Hoàng – Đại học Lạc Hồng

Bội chi ngân sách nhà nước là một hiện tượng phát sinh khá phổ biến ở hầu hết các nước. Để có nguồn đảm bảo đáp ứng bội chi ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn thu từ nền kinh tế còn hạn hẹp, Chính phủ các nước thường sử dụng nhiều nguồn nhưng nguồn mang tính chủ lực và có tác động lan tỏa tích cực đó chính là nguồn vay nợ trong và ngoài nước hay còn gọi là nợ công. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó, tuy nhiên, làm thế nào để nâng cao hiệu quả quản lý nợ công là vấn đề đang đặt ra...

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Thực trạng nợ công tại Việt Nam

Theo Luật Quản lý nợ công năm 2009 của Việt Nam, nợ công gồm: Nợ chính phủ, Nợ được Chính phủ bảo lãnh và Nợ chính quyền địa phương. Tuy nhiên, để đánh giá đúng đắn bản chất, vai trò của nợ công như là một nguồn lực chính yếu cho sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của một nước, cần đánh giá các nhân tố có ảnh hưởng, tác động qua lại đến nợ công qua đẳng thức cơ bản sau:

d = B/(gy-i)

Trong đó, d là tỷ lệ nợ công so với GDP; B là tỷ lệ bội chi NSNN/GDP (không bao gồm nợ vay); gy là tốc độ tăng trưởng GDP, i là lãi suất.

Như vậy, nợ công chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ yếu sau:         Bội chi ngân sách nhà nước (B);Tăng trưởng hay suy thoái kinh tế, thông qua chỉ tiêu GDP (gy); Lãi suất trên thị trường đồng nội tệ và ngoại tệ (i). Ngoài ra, nợ công nếu vay nước ngoài thì còn chịu rủi ro về biến động tỷ giá hối đoái. Còn trong quá trình sử dụng theo thời gian, nó sẽ chịu ảnh hưởng bởi nhân tố lạm phát.

Thực tế cho thấy, nợ công đã và đang trở thành nguồn lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước như: Mỹ, Singapore, Trung Quốc... với điểm chung là Chính phủ sử dụng nợ công với tỷ trọng khá cao. Điểm nhấn ở đây là, việc huy động, phân bổ, sử dụng nợ công luôn gắn liền với các chương trình, dự án KT-XH thiết thực, có khả năng thu hồi vốn cao, luôn gắn với tỷ lệ bội chi NSNN trong giới hạn kiểm soát được (khoảng 5%/năm) và ngược lại. Cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu các năm 2009-2012 càng làm sáng tỏ nhận định trên.

Ở Việt Nam, những năm qua, nợ công đã góp phần quan trọng vào sự phát triển KT-XH nước ta, thể hiện ở các mặt sau:

- Về quy mô nợ công, trong giai đoạn 2011- 2015, quy mô huy động từ vay nợ đạt bình quân 14% GDP, chiếm khoảng 44% vốn đầu tư toàn xã hội, với tốc độ tăng bình quân 19%/năm. Về tỷ lệ nợ công trên GDP, nếu năm 2001 là 36,5% thì đến năm 2015 là 61,3% GDP và năm 2016 đã là 64,73% GDP.

- Về cơ cấu nợ công, trong giai đoạn 2011 - 2015, vay nợ Chính phủ chiếm bình quân 76% gấp 3,1 lần so với 5 năm trước, bảo lãnh Chính phủ chiếm 19%, gấp 2,2 lần và vay của chính quyền địa phương chiếm 4,2%. Riêng năm 2015, vay nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng 80,8%, năm 2016, vay nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng 80,5%. Có thể nói, vay nợ Chính phủ ngày càng mang tính chi phối trong nợ công.

- Về cơ cấu nguồn vay nợ, trong giai đoạn 2011-2015, có xu hướng chung là tỷ trọng vay trong nước ngày càng được nâng lên còn tỷ trọng vay nước ngoài ngày càng được giảm xuống. Đến cuối năm 2016, trong danh mục nợ vay của Chính phủ, cơ cấu vay trong nước và vay ngoài nước khoảng 59% và 41%, tức là đã được cải thiện khá nhiều so với các năm trước (thời điểm cuối năm 2011 là 38,9% và 61,1%; năm 2015 khoảng 57% và 43%). Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ quốc tế cũng có nhận định rằng cơ cấu nợ công của Việt Nam đang từng bước được điều chỉnh theo hướng bền vững hơn.

Riêng cơ cấu đồng tiền trong danh mục nợ của Chính phủ tập trung vào một số đồng tiền chính bao gồm: đồng Việt Nam chiếm tỷ trọng 55%; USD chiếm tỷ trọng 16%; Yên Nhật chiếm tỷ trọng 13% và đồng Euro chiếm tỷ trọng khoảng 7%, còn lại là các đồng tiền khác, góp phần giảm thiểu rủi ro về tỷ giá.

- Về tình hình sử dụng nợ công, nợ công của Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc hình thành mới, nâng cấp, mở rộng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng; nhiều công trình quan trọng, thiết yếu được đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới cho đất nước,tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực trong đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế.

Trên tổng thể, nợ công đã trở thành nguồn tài trợ chính cho đầu tư phát triển KT-XH nước ta thông qua chi NSNN, góp phần giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế nước ta ở mức khá cao trong giai đoạn 2011-2015, đạt bình quân 5,9%, riêng năm 2016 đạt 6,21 %. Trong vòng 10 năm trở lại đây, GDP của Việt Nam đã có bước tăng trưởng tới hơn 3 lần. Nếu năm 2006, GDP/đầu người đạt 715 USD thì năm 2015 là 2.019 USD,năm 2016 là 2.215 USD. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên.

Bên cạnh những kết quả trên, nợ công của Việt Nam bộc lộ một số hạn chế như sau:

- Về quy mô nợ công: Bảng 1 cho thấy, nợ công trong 5 năm 2012-2016 đã tăng lên bình quân là 22%/năm và nhanh gấp hơn 3,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP bình quân cùng kỳ là 5,9%/năm. Đáng lo ngại ở đây là tốc độ tăng của nợ công quá lớn, chưa có dấu hiệu dừng lại, dẫn đến năm 2016, tỷ lệ nợ công/GDP đã đạt 64,73%, sát với ngưỡng cho phép 65% của Quốc hội.

Theo thông lệ quốc tế, ngưỡng nợ công tối ưu được xác định cho các nước đang phát triển có nền tảng tốt là 60% và có nền tảng kém là 30 - 40%. Việc Quốc hội nước ta đề ra ngưỡng nợ công/GDP là 65% trong giai đoạn 2016-2020 là phù hợp.

- Về sử dụng nợ công: Giai đoạn 2012 – 2016, khoản vốn vay này được dùng để bù đắp bội chi NSNN chiếm tỷ trọng chủ yếu 53%. Khoản được sử dụng cho đầu tư các dự án trọng điểm về giao thông, nông nghiệp, y tế, giáo dục và bố trí vốn đối ứng ODA chiếm tỷ trọng khiêm tốn 17%.

Khoản còn lại 30%, phần lớn được dùng cho vay lại, tập trung vào các ngành, các lĩnh vực cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn như: điện, dầu khí, hàng không, đường cao tốc, cấp nước... số còn lại được dùng để đảo nợ vay. Qua đó cho thấy, hiệu quả sử dụng nợ công là khá thấp và khả năng trả nợ là khó vì chủ yếu nợ công tập trung cho việc bù đắp bội chi NSNN (với những công trình không thể thu hổi vốn) và đảo nợ là các hoạt động không tạo ra giá trị mới.

+ Hiệu quả đầu tư thấp, còn thể hiện qua chỉ số ICOR nước ta những năm qua. Cụ thể: giai đoạn 2011-2015, ICOR đạt 6,91, đã tiến bộ hơn so với giai đoạn 2006-2010 là 6,96, tuy nhiên, nó vẫn còn cao, hiệu quả đầu tư còn thấp nếu xét trong mối tương quan với nhiều nước trong khu vực tại cùng kỳ so sánh.

+ Giải ngân vốn vay còn chậm. So với nhu cầu đầu tư, việc huy động vốn vay đã thấp nhưng lại không đưa vốn vay vào sử dụng ngay được, đó là sự lãng phí đáng tiếc. Giải ngân, phân bổ vốn đầu tư công cả năm 2016 và 5 tháng đầu năm 2017 tuy cao hơn cùng kỳ năm trước nhưng còn chậm, không phân bổ hết dự toán, có tiền không tiêu hết được. Chính sự chậm trễ này là nguyên nhân cơ bản làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, làm tăng trưởng kinh tế không đạt kế hoạch 06 tháng đầu năm 2017, làm ảnh hưởng tiêu cực đến công tác thu NSNN...

- Về trả nợ công, bài viết chỉ đề cập về trả nợ Chính phủ vì khoản nợ này mang tính quyết định. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp bình quân giai đoạn 2011-2015, khoảng 14,3% tổng thu NSNN. Nếu tính cả nghĩa vụ trả nợ phải đảo nợ thì tỷ lệ trả nợ là 21% tổng thu NSNN.

Trong năm 2015, con số này đã lên 27%, năm 2016 là 26,3%, vượt mức trần Quốc hội đề ra tối đa là 25%. Đáng chú ý, số vay đảo nợ để trả nợ gốc hàng năm ngày càng tăng lên. Cụ thể: nếu số vay đảo nợ năm 2012 chỉ có 20.000 tỷ đồng thì năm 2015 đã tăng125.000 tỷ đồng, năm 2016 là 95.000 tỷ đồng.

Mặc dù cơ cấu nợ công nước ta thời gian qua đã được điều chỉnh theo hướng tích cực hơn và giảm thiểu rủi ro song quy mô tăng nợ công quá nhanh, chưa có dấu hiệu dừng lại, việc sử dụng và trả nợ còn bất cập.

Nguyên nhân khiến nợ công tăng

Nợ công chịu tác động qua lại bởi nhiều nhân tố. Thời gian qua, nợ công Việt Nam tăng là do những nguyên nhân sau:

Thứ nhất, bội chi NSNN diễn ra liên tục nhiều năm. Để có nguồn bù đắp, tất yếu nợ công ngày càng tăng lên.

Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của nước ta giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến 2030 đã quy định, tỷ lệ bội chi NSNN/GDP cần duy trì ở mức 5%. Tuy nhiên, trên thực tế, trong một thời gian dài, điển hình là giai đoạn 2012 – 2016, tỷ lệ bội chi NSNN/GDP nước ta đều vượt quá 5%, bình quân thời kỳ này là 6%. Chính sự thiếu hụt trầm trọng này làm cho nợ công tăng.

Nguyên nhân dẫn đến bội chi NSNN giai đoạn 2012-2016 là do nguồn thu thường xuyên huy động từ nền kinh tế chưa đầy đủ. Nguồn thu từ dầu thô sụt giảm mạnh trong những năm gần đây, dẫn đến thu NSNN không đạt. Trong khi, để tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức 6% trở lên, đòi hỏi chi tiêu NSNN rất lớn, vượt xa nguồn thu từ nội tại nền kinh tế...

Thứ hai, tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại, chưa đạt chỉ tiêu đề ra là nguồn gốc sâu xa làm tăng nợ công.

Giai đoạn 2011-2015, tăng trưởng GDP bình quân đạt 5,9%/năm, thấp hơn giai đoạn 2006- 2010 (6,3%/năm), riêng năm 2016 cũng đạt mức 6,21%, chưa đạt chỉ tiêu đề ra. Chất lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp, năng suất nhiều ngành, lĩnh vực còn kém; hệ số sử dụng vốn (ICOR) còn cao...

Chính sự tăng trưởng chậm lại, tức sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn hơn đã làm cho nguồn thu NSNN bị giảm theo. Chi NSNN lại đòi hòi phải nhiều hơn, nhất là chi cho đầu tư phát triển nhằm kích thích nền kinh tế tăng trưởng trở lại, từ đó, nhu cầu chi đã vượt quá so với nguồn thu, nguồn tiết kiệm có được cùng kỳ, cụ thể: giai đoạn2011-2015, vốn đầu tư toàn xã hội vẫn ở mức khá cao 32 - 33% GDP, nhưng tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế chỉ đạt khoảng 25% GDP. Thiếu hụt về vốn đầu tư đó, Nhà nước phải đi vay để bù đắp, làm cho nợ công tiếp tục gia tăng.

Thứ ba, lãi suất, tỷ giá và lạm phát có ảnh hưởng đến việc gia tăng nợ công Việt Nam nhưng không đáng kể.

Giai đoạn 2012 – 2016, lãi suất tiết kiệm đồng nội tệ đều có khuynh hướng giảm nhẹ, kéo theo lãi suất cho vay cũng giảm tương ứng. Trong cơ cấu nợ công, vay trong nước cũng chiếm hơn 55% trong giai đoạn này. Riêng lãi suất các đồng ngoại tệ mạnh như: USD, EUR, JPY... cũng đều có xu hướng giảm nhẹ nhằm khuyến khích đầu tư...

Có thể nói lãi suất cả đồng nội tệ và ngoại tệ không có tác động tiêu cực đến việc gia tăng nợ công Việt Nam thời gian qua. Trong giai đoạn 2012-2016, tỷ giá giữa VND với khá ổn định, biên độ dao động chỉ khoảng 1%/năm nên chỉ có ảnh hưởng chút ít đến gia tăng nợ công Việt Nam. Riêng tỷ lệ lạm phát, trong giai đoạn này, nước ta đã kiềm chế được lạm phát và Chỉ số này có xu hướng giảm dần vào cuối giai đoạn. Do vậy, nó cũng chỉ gây ra áp lực nhỏ làm tăng nợ công Việt Nam thời gian qua.

Thứ tư, việc tổ chức quản lý nợ công còn hạn chế, cả về hành lang pháp lý, tổ chức quản lý và con người thực hiện.

Hiện nay, khuôn khổ pháp lý về quản lý vay nợ, trả nợ đã có nhưng hiệu lực pháp lý chưa cao. Mặt khác, công tác quản lý nợ công ở nước ta chưa tuân thủ nghiêm các quy định pháp lý đã đề ra. Điển hình như việc thiếu chế tài kiểm soát chỉ số nợ công, thiếu các biện pháp cần thiết và có hiệu quả để quản lý nợ công. Hơn nữa, quy định quản lý nợ công còn bất cập ở chỗ chưa tập trung vào một đầu mối quản lý, không gắn liền trách nhiệm đi vay, sử dụng và trả nợ chặt chẽ với nhau.

Cụ thể, đi vay được phân công cho 3 cơ quan: Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm về các khoản vay ODA, vay ưu đãi; Ngân hàng Nhà nước vay các tổ chức tài chính quốc tế; Bộ Tài chính thì các hình thức vay khác. Tuy nhiên, khâu trả nợ lại chưa quy định dứt khoát cơ quan nào là đầu mối đứng ra chịu trách nhiệm đến cùng việc trả nợ vay. Đây là bất cập lớn, dẫn đến nợ công hiện nay đã tiến gần mức trần 65% GDP.

Bên cạnh đó, chưa có biện pháp chế tài đủ mạnh nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm các cơ quan có liên quan trong quản lý nợ công, dẫn đến việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán tình hình thực hiện, chất lượng, hiệu quả các dự án sử dụng nợ công thời gian qua chưa được thường xuyên, thiếu chặt chẽ.

Mặt khác, một số bộ, ngành, các địa phương chưa thấy hết trách nhiệm vay và trả nợ, nhận thức về nợ công còn lệch lạc, thậm chí coi nợ vay ODA như vốn cho không, hệ quả là phát sinh nhiều tiêu cực, tham nhũng, nợ công sử dụng kém hiệu quả. Năng lực quản lý nợ công nước ta còn hạn chế, đội ngũ chuyên môn còn yếu, nhất là trong quản trị rủi ro tín dụng, thanh toán... tinh thần đạo đức trách nhiệm chưa cao.

Kết luận và một số kiến nghị

Để đảm bảo chỉ số nợ công, nợ Chính phủ trong giới hạn cho phép, không vượt quá 65% GDP, nợ Chính phủ không vượt quá 50% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ không vượt quá 25% tổng thu NSNN hàng năm, từng bước giảm dần quy mô nợ công khoảng 60% GDP vào năm 2030 (theo Nghị quyết của Quốc hội khóa XIV), cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:

Một là, đổi mới nợ công trước tiên phải gắn liền với tái cơ cấu NSNN theo hướng lành mạnh hóa vàổn định. Đây là giải pháp mang tính quyết định để NSNN nước ta thực sự lành mạnh hóa, mục tiêu xuyên suốt là phải kiên quyết cắt giảm bội chi NSNN theo Nghị quyết Đại hội Đảng XII về kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2016-2020, đó là: giảm dần bội chi NSNN đến năm 2020 về dưới 4% GDP. Để đạt được yêu cầu trên, cần thực hiện trên cả 2 mặt:

- Cơ cấu lại thu NSNN theo hướng thu NSNN ổn định, bền vững. Theo đó, chính sách thuế cần mở rộng đến mọi nguồn thu, phù hợp với khả năng đóng góp của người nộp thuế, chú trọng thu nội địa, tăng tỷ trọng thuế trực thu trên cơ sở phát triển sản xuất kinh doanh.

Tăng cường chống thất thu, nợ đọng thuế, xử lý cương quyết tình trạng trốn thuế qua hình thức “chuyển giá” tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Kiên trì cải cách thủ tục hành chính thuế gắn với đẩy mạnh công tác tuyên truyền về thuế nhằm góp phần chống tiêu cực, nâng cao ý thức trách nhiệm của người nộp thuế, qua đó, huy động thuế đầy đủ và kịp thời hơn vào NSNN.

- Cơ cấu lại chi NSNN theo hướng: Giảm và tiết kiệm chi thường xuyên, bằng cách cương quyết tinh giảm biên chế trong bộ máy nhà nước, mạnh dạn chuyển đổi từ chế độ biên chế sang hợp đồng đối với các đơn vị sự nghiệp công, đầy mạnh dịch vụ sự nghiệp công, qua đó, thu hẹp phạm vi và giảm bớt gánh nặng chi thường xuyên cho NSNN…

Bên cạnh đó, chính quyền các cấp phải tuân thủ nghiêm kỷ luật tài khóa theo Luật NSNN năm 2015 đã quy định: nếu thu không đạt dự toán thì phải giảm chi tương ứng.

Hai là, tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và vững chắc, vì đây chính là nguồn gốc, cơ sở tạo ra nguồn thu NSNN vững bền để trả nợ công. Theo đó, cần ban hành các cơ chế, chính sách tạo môi trường kinh doanh thuận lợi thông thoáng, khuyến khích các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân mạnh dạn đầu tư phát triển.

Đảm bảo quy mô đầu tư xã hội đạt 32 - 34% GDP ở giai đoạn 2016-2020; Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh, trong đó, vấn đề then chốt là phải chuyển nền kinh tế từ làm hàng gia công, khai thác nguyên liệu thô là chủ yếu sang tập trung chế biến sâu gắn với công nghệ hiện đại và công nghiệp 4.0 nhằm làm gia tăng giá trị sản phẩm; Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu với cơ cấu mặt hàng, dịch vụ đa dạng trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam (đây là nguồn duy nhất tạo ra lượng ngoại tệ để trả nợ nước ngoài của Chính phủ).

Phối hợp đồng bộ và hiệu quả chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách khác để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế, qua đó, tạo cơ sở tăng trưởng kinh tế ở mức cao và ổn định.

Ba là, điều hành lãi suất, tỷ giá và lạm phát linh hoạt, qua đó giảm thiểu rủi ro lãi suất, tỷ giá và rủi ro tín dụng của nợ công trong thời gian tới. Điều hành lãi suất theo cơ chế thị trường, đảm bảo sàn và trần lãi suất hợp lý để khuyến khích tiết kiệm, đầu tư. Luôn đảm bảo quỹ dự trữ ngoại tệ đủ mạnh (đạt khoảng 3 tháng kim ngạch nhập khẩu) để sẵn sàng ứng phó với những biến động bất lợi về tỷ giá; Duy trì và kiểm soát mức độ lạm phát ở mức độ hợp lý (khoảng 5%/năm) nhằm kích cầu, hạn chế rủi ro về tỷ giá do vay nợ nước ngoài.

Bốn là, đổi mới căn bản tổ chức quản lý nợ công cả về hành lang pháp lý, cơ chế quản lý và con người thực hiện. Cần hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý về nợ công. Trước mắt, xem xét sửa đổi kịp thời Luật quản lý nợ công năm 2009, tập trung vào những vấn đề trọng yếu sau:

+ Quy định tập trung một đầu mối quản lý nợ công, gắn liền trách nhiệm đi vay, sử dụng và trả nợ chặt chẽ với nhau, tuân thủ nguyên tắc trước khi đi vay, phải xác định được phương án trả nợ vay có tính khả thi cao. Trên cơ sở rút kinh nghiệm công tác quản lý nợ công ở các nước, kiến nghị Bộ Tài chính sẽ là đầu mối thống nhất quản lý nợ công. Khi đó, sẽ nâng cao được vai trò, trách nhiệm và có cơ sở truy cứu đến cùng việc quản lý nợ công.

+ Có biện pháp chế tài đủ mạnh nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm các cơ quan có liên quan trong kiểm tra phân bổ sử dụng vốn vay, đôn đốc thu hồi nợ hoặc tìm nguồn thu trả nợ đúng hạn, thúc đẩy giải ngân vốn vay kịp thời, hạn chế được tiêu cực tham nhũng trong quá trình xét duyệt, phân bổ vốn vay, đảm bảo chất lượng, hiệu quả các công trình đầu tư công. Mặt khác, một số bộ ngành, nhất là các địa phương nhận thức rõ trách nhiệm vay và trả nợ đúng đắn, kể cả vay ODA, từ đó, sử dụng vốn vay một cách chắt chiu, tiết kiệm, có khả năng thu hồi để trả nợ.

  - Ban hành quy định, cơ chế kiểm soát chặt chẽ nợ công trong giới hạn trần cho phép, đảm bảo tốc độ gia tăng dư nợ công thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ trượt giá. Bên cạnh đó, cần đề cao tính kỷ luật tài chính trong quản lý nợ công, chú trọng đến trách nhiệm cá nhân người điều hành, có thưởng, phạt phân minh rõ ràng nhằm đảm bảo hiệu quả nợ công.

- Chuyển đổi phương thức quản lý đầu tư theo NSNN hàng năm sang kế hoạch tài chính trung hạn 5 năm nhằm phân bổ nguồn nợ vay theo các ưu tiên chiến lược quốc gia.

- Từng bước nâng cao trình độ, năng lực quản lý nợ công cho đội ngũ cán bộ chuyên trách nước ta hiện nay, chú trọng bồi dưỡng kỹ năng kiểm tra, phân tích đánh giá các chương trình, dự án đầu tư công không chỉ về mặt hiệu quả kinh tế mà còn trên các mặt xã hội, bảo vệ môi trường... để đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, có khả năng dự báo, nhận diện đánh giá và biết cách giảm thiểu, phân tán, xử lý các loại rủi ro liên quan đến nợ công. Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao tinh thần đạo đức, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ cho đội ngũ này bằng nhiều giải pháp thích hợp.

Năm là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam để các công cụ nợ Chính phủ được giao dịch mua bán thuận lợi, tạo kênh vay vốn chủ yếu với chi phí thấp, nhất là vốn vay trung và dài hạn cho đầu tư phát triển; Có cơ chế đẩy mạnh việc xã hội hóa các công trình mà các thành phần kinh tế khác có thể tham gia (giáo dục, y tế, đường giao thông...) nhằm giảm tải chi đầu tư từ nguồn NSNN, giảm áp lực tăng nợ công.

Cùng với việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công năm 2009, cần sửa đổi bổ sung các luật có liên quan đến quản lý nợ công như: Luật Đầu tư công năm 2014, Luật NSNN năm 2015... nhằm đảm bảo tính đồng bộ và phát huy hiệu lực cao nhất.

Quản lý nợ công là một trong những vấn đề quan trọng nhất xét ở khía cạnh tác động qua lại đến bội chi NSNN và tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay. Nếu không khắc phục kịp thời những tồn tại, yếu kém về nợ công nói trên thì nó sẽ trở thành lực cản, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.

Ngược lại, nếu Nhà nước mạnh dạn đổi mới cách thức quản lý nợ công với những giải pháp hữu hiệu trên đây thì nợ công sẽ trở thành lực đẩy cần thiết mang tính nền tảng để hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng nước ta hoàn chỉnh đồng thời sẽ có tác động tích cực đến việc lành mạnh hóa NSNN và đảm bảo cấu trúc an ninh tài chính quốc gia, qua đó, tạo bệ phóng cho nền kinh tế nước ta cất cánh vững chắc trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.     

Tài liệu tham khảo:

1. Luật Quản lý nợ công số 29/2009/QH12;

2. Bản tin Nợ công số 4 (2016) - Bộ Tài chính;

3. PGS.,TS. Sử Đình Thành và cộng sự (2010), Tài chính công & phân tích chính sách thuế, NXB Lao động;

4.ThS. Lê Thị Khương (2016) “Bàn về nợ công Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Ngân hàng, (21);

5. PGS.,TS. Đặng Văn Thanh (2016), “Đổi mới và nâng cao chất lượng Quản lý sử dụng nợ công ở Việt Nam”, Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, (12);

6. Văn kiện Đại hội Đảng Khóa XII;

7. IMF (2001, 2014), Hướng dẫn quản lý nợ công.