Hoàn thiện quy định về định giá tài sản trí tuệ trong điều kiện hội nhập kinh tế

NCS. Lê Minh Thái - Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh

Mặc dù hoạt động định giá tài sản trí tuệ ở Việt Nam đã diễn ra từ trước khi ban hành Luật Sở hữu trí tuệ (năm 2005), song cho đến hiện nay việc định giá tài sản trí tuệ vẫn chưa tuân thủ theo một chuẩn mực nào. Các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ hầu như không điều chỉnh trực tiếp mà chỉ đề cập đến các quy định mang tính chất nguyên tắc về cách tính toán (dựa trên sổ sách) của tài sản vô hình, trong đó bao gồm các tài sản trí tuệ. Để việc định giá tài sản trí tuệ ở Việt Nam được đồng bộ, trong thời gian tới, cần hoàn thiện những quy định pháp luật về định giá tài sản vô hình nói chung và tài sản trí tuệ nói riêng.

Khái niệm, bản chất pháp lý và đặc điểm định giá tài sản trí tuệ

Đối với các doanh nghiệp (DN), tài sản trí tuệ đóng vai trò là thước đo hiệu quả kinh doanh, sức cạnh tranh và khả năng phát triển của DN trong tương lai. Việc định giá tài sản trí tuệ giúp các DN khẳng định được vị thế, uy tín trên thị trường, đồng thời DN có thể tiến hành thương mại hóa được các tài sản trí tuệ một cách thuận lợi.

Định giá là loại hoạt động chuyên môn vừa mang tính kinh tế - kỹ thuật, tính pháp lý, vừa mang tính xã hội. Hoạt động định giá hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của thị trường. Theo quy định của pháp luật, định giá được hiểu như sau:

- Xác định giá trị: Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006 quy định: “Định giá công nghệ là hoạt động xác định giá của công nghệ”.

- Quy định giá: Luật Giá năm 2012 quy định: “Định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quy định giá cho hàng hóa, dịch vụ”.

Như vậy, định giá tài sản được hiểu là việc tư vấn, định các mức giá cụ thể cho từng loại tài sản làm căn cứ cho các hoạt động giao dịch mua, bán tài sản, hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường. Đối với các loại tài sản, hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá (các cơ quan có thẩm quyền quy định) thì các mức giá cụ thể của từng loại tài sản, hàng hóa mang tính bắt buộc mọi đối tượng tham gia hoạt động giao dịch, mua bán phải thực hiện.

Đối với các tài sản, hàng hóa, dịch vụ không thuộc danh mục Nhà nước định giá thì do các tổ chức, cá nhân tự định giá theo quy luật thị trường làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch mua bán, trao đổi.

Cần chú ý rằng, khái niệm định giá không đồng nhất với khái niệm “thẩm định giá”. Khoản 15, Điều 4 Luật Giá năm 2012 quy định: “Thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá theo Điều 4, Khoản 15.” Như vậy, thẩm định giá chú trọng vào việc kiểm tra, xác thực giá cả của hàng hóa, dịch vụ. Công việc thẩm định giá thường do các thẩm định viên về giá thực hiện theo tiêu chuẩn thẩm định giá do Nhà nước quy định.

Từ những khái niệm và phân tích nêu trên, định giá tài sản trí tuệ có thể được hiểu là hoạt động xác định giá trị và đưa ra giá cả của một tài sản trí tuệ cụ thể tại một thời điểm xác định, làm căn cứ cho các hoạt động giao dịch mua, bán tài sản trí tuệ đó trên thị trường. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định về định giá tài sản trí tuệ ở các văn bản trong các lĩnh vực khác nhau.

Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự mâu thuẫn trong các quy định pháp luật về định giá tài sản trí tuệ (việc liệt kê các đối tượng tài sản trí tuệ được định giá, các phương pháp định giá tại các văn bản không thống nhất). Do vậy, việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về định giá tài sản trí tuệ của Việt Nam không chỉ là một trong những nhiệm vụ thuộc khuôn khổ hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành về tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ mà còn là đòi hỏi của bản thân nền kinh tế, môi trường kinh doanh và hoạt động kinh doanh của các DN.

Thực trạng quy định pháp luật về định giá tài sản trí tuệ

Hiện nay, những quy định về định giá tài sản trí tuệ còn tồn nhiều bất cập, cụ thể:

Thứ nhất, các văn bản pháp luật còn thiếu nhất quán trong cách hiểu về cụm từ “tài sản trí tuệ”.

Bộ luật Dân sự năm 1995 là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Theo đó, các đối tượng tài sản trí tuệ được quy định tại Bộ luật này bao gồm: Các đối tượng quyền tác giả (tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học); Các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp (sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá và các đối tượng khác do pháp luật quy định). Sau Bộ luật này, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện hơn các quy định về các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ.

Tuy nhiên, Chuẩn mực kế toán số 04 về tài sản cố định vô hình được ban hành vào năm 2001 lại sử dụng các thuật ngữ không chính xác so với quy định của Bộ luật Dân sự 1995 cũng như quy định của pháp luật quốc tế về các loại tài sản trí tuệ như: phần mềm máy tính, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hàng hoá.

Thuật ngữ “bằng sáng chế” hay chính xác hơn là “bằng độc quyền sáng chế” dùng để chỉ văn bằng bảo hộ ghi nhận các thông tin về chủ sở hữu sáng chế, tên tác giả, đối tượng bảo hộ, phạm vi bảo hộ và thời hạn bảo hộ nên “bằng độc quyền sáng chế” không phải là một tài sản trí tuệ và cũng không là tài sản cố định vô hình của DN.

Những “sáng chế” được pháp luật bảo hộ mới là tài sản cố định vô hình chứ không phải là văn bằng bảo hộ ghi nhận những thông tin liên quan đến sáng chế được bảo hộ. Bên cạnh đó, tài sản trí tuệ là sáng chế lại chỉ được giới hạn là “bằng sáng chế”, như vậy nếu được bảo hộ dưới hình thức là giải pháp hữu ích hoặc chưa đăng ký bảo hộ sáng chế, DN sẽ khó có cơ sở để tính toán giá trị của các tài sản này.

Thứ hai, các quy định pháp luật còn mâu thuẫn khi quy định phân loại tài sản trí tuệ thành tài sản cố định vô hình để định giá và tính vào giá trị DN.

Theo Chuẩn mực kế toán số 04, chỉ một số đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ được coi là tài sản cố định vô hình như sáng chế, quyền tác giả, nhãn hiệu (trong trường hợp nhãn hiệu đó không phải được tạo ra từ nội bộ DN như nhãn hiệu đó được mua lại). Tuy nhiên, Khoản 2, Điều 4, Thông tư 45/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định tất cả các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng) đều được coi là tài sản cố định vô hình và từ đó là cơ sở để định giá và tính vào giá trị DN.

Như vậy, Điểm b, Khoản 1 Điều 6 của Thông tư 45/2013/TT-BTC coi chỉ dẫn địa lý là một loại tài sản cố định vô hình của DN, là mâu thuẫn với quy định tại Khoản 4, Điều 121 Luật Sở hữu trí tuệ: “Chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là Nhà nước”. Do đó, không thể coi chỉ dẫn địa lý là một loại tài sản cố định vô hình của DN. Bên cạnh đó, theo Thông tư 127/2014/TT-BTC, giá trị thương hiệu (bao gồm nhãn hiệu và tên thương mại) được tính vào giá trị DN khi cổ phần hóa. Tuy nhiên, trong Chuẩn mực kế toán số 04 lại không quy định thương hiệu là tài sản cố định để được định giá và tính vào giá trị DN.

Thứ ba, quy định về phương pháp định giá còn thiếu nhất quán.

Tiêu chuẩn thẩm định giá số 13 quy định về các phương pháp xác định giá trị tài sản trí tuệ trong cách tiếp cận từ chi phí bao gồm phương pháp chi phí tái tạo và phương pháp chi phí thay thế. Tuy nhiên, theo quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành về kế toán hay cổ phần hóa DN Nhà nước (DNNN), giá trị tài sản trí tuệ chủ yếu được tính bằng phương pháp chi phí mang tính lịch sử (chi phí quá khứ).

Giá trị của tài sản trí tuệ được xác định bằng tổng chi phí cho việc phát triển cộng (+) với chi phí xác lập quyền và chi phí cho việc duy trì hiệu lực độc quyền đối với tài sản trí tuệ đó. Chẳng hạn, giá trị bản quyền, bằng sáng chế là toàn bộ các chi phí thực tế đã chi ra để có bản quyền tác giả, bằng sáng chế; Giá trị nhãn hiệu là các chi phí thực tế liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu; Giá trị thương hiệu bao gồm các chi phí thực tế cho việc “sáng chế, xây dựng và bảo vệ nhãn mác, tên thương mại” của DN.

Theo quy định tại Chuẩn mực kế toán số 04, các chi phí như: chi phí thành lập DN, chi phí đào tạo nhân viên và chi phí quảng cáo phát sinh trong giai đoạn trước hoạt động của DN mới thành lập, chi phí cho giai đoạn nghiên cứu… không được tính vào khi xác định giá trị tài sản trí tuệ.

Trong khi đó, theo quy định của Thông tư 127/2014/TT-BTC, giá trị thương hiệu của DN cổ phần hóa được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại trong quá trình hoạt động của DN, bao gồm: chi phí thành lập DN, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng cáo, tuyên truyền trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu công ty... Sự mâu thuẫn trong việc xác định các loại chi phí khi tiến hành định giá giữa các văn bản pháp luật nói trên tạo cách hiểu và cách áp dụng không thống nhất trong việc vận dụng phương pháp chi phí để định giá tài sản trí tuệ của DN trong quá trình kinh doanh.

Thứ tư, thiếu các quy định về định giá tài sản trí tuệ khi thực hiện góp vốn thành lập DN bằng quyền sở hữu trí tuệ.

Ở Việt Nam, việc góp vốn, liên doanh bằng tài sản trí tuệ (chủ yếu là góp vốn bằng thương hiệu) diễn ra khá sôi động, đi trước các quy định của pháp luật. Từ những năm 1990, các tập đoàn đa quốc gia đã tiếp cận thị trường Việt Nam thông qua việc liên doanh, liên kết, mua bán, sáp nhập với các DN trong nước.

Thực tiễn trong hoạt động liên doanh giữa DN Việt Nam với các DN nước ngoài cho thấy, DN Việt thường chỉ chú ý vào giá trị quyền sử dụng đất và các tài sản hữu hình mà chưa chú ý đến các tài sản vô hình như tài sản trí tuệ. Đến nay vẫn chưa có quy định hướng dẫn việc góp vốn và nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu, vì hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau và cũng chưa có tổng kết, đánh giá được hết các vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn.

Việc xác định giá trị, nhượng quyền sử dụng tài sản trí tuệ, góp vốn liên doanh, liên kết… bằng giá trị tài sản trí tuệ đối với các DN thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta đến nay vẫn còn là một khoảng trống.

Thứ năm, các yêu cầu của pháp luật về hạch toán kế toán tài sản của DN giúp cho định giá tài sản trí tuệ còn bất cập.

Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 04 quy định về tài sản cố định vô hình đã hướng dẫn cách xác định nguyên giá và nguyên tắc ghi sổ kế toán đối với các tài sản trí tuệ được coi là tài sản cố định vô hình của DN, bao gồm: nhãn hiệu hàng hóa, phần mềm máy vi tính, bản quyền, bằng sáng chế. Các nhãn hiệu hàng hóa được hình thành trong nội bộ DN không được ghi nhận là tài sản cố định vô hình.

Việc không có quy định về tên thương mại và các loại tài sản trí tuệ khác, cũng như không coi nhãn hiệu hàng hóa do DN tạo ra là tài sản cố định vô hình đã gây nhiều trở ngại và thiệt thòi cho DN trong quá trình định giá, mua bán sáp nhập DN và khi phát hành chứng khoán. Trên thực tế, đối với nhiều DN, tên thương mại và nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ lại có giá trị lớn, nhiều khi lớn hơn cả tài sản hữu hình của DN và đối tượng hướng tới trong các hoạt động liên doanh, liên kết, sáp nhập của DN nước ngoài trong các thương vụ với DN Việt đa phần chính là vì những nhãn hiệu mạnh cũng như thị phần của những DN này.

Như vậy, giữa các quy định về kế toán DN và cổ phần hóa DNNN có sự không thống nhất trong việc xác định giá trị tài sản trí tuệ là nhãn hiệu, tên thương mại. Điều này khiến cho mỗi DN, mỗi công ty kiểm toán có cách nhìn và ứng xử khác nhau. Nếu sử dụng phương pháp chi phí quá khứ để xác định giá trị tài sản trí tuệ sẽ gây thiệt hại cho các DN sở hữu khối lượng lớn các tài sản trí tuệ trong các hoạt động liên doanh, liên kết, sáp nhập, cổ phần hóa DN.

Thứ sáu, thiếu quy định về định giá tài sản trí tuệ trong việc thực hiện các giao dịch bảo đảm bằng tài sản trí tuệ.

Pháp luật hiện hành về giao dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu trí tuệ còn khá sơ lược và chưa thực sự tạo cơ sở pháp lý an toàn cho việc cho vay vốn có tài sản bảo đảm là tài sản trí tuệ. Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, quyền tài sản là một loại tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điều 322 Bộ luật Dân sự quy định: “Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng… đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”.

Mặc dù Điều 322 của Bộ luật Dân sự liệt kê rõ ràng các quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng làm tài sản bảo đảm nhưng Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 lại không đề cập tới việc thế chấp các quyền sở hữu trí tuệ này.

Cũng không có bất cứ quy định nào về việc xác lập và hệ quả pháp lý của giao dịch bảo đảm có đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, theo quy định tại khoản 6, Điều 3 Thông tư 05/2011/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 16/02/2011 hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký Quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp, việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký Quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp chứ không phải tại Cục sở hữu trí tuệ như thông lệ tại nhiều nước trên thế giới.

Xác định giá trị tài sản bảo đảm là một vấn đề liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch bảo đảm, đặc biệt là trong việc vay vốn bằng tài sản thế chấp tại các tổ chức tín dụng. Khoản 1 Điều 324 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Về “thỏa thuận khác” được giải thích tại Điều 5 của Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định về giao dịch bảo đảm như sau: “Các bên có thể thoả thuận dùng tài sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm”. Đây là những quy định pháp lý duy nhất về xác định giá trị tài sản bảo đảm trong các giao dịch bảo đảm.

Vì vậy, trên thực tế, đối với hoạt động cho vay vốn của các tổ chức tín dụng, việc cho vay dựa trên tài sản bảo đảm là quyền sở hữu trí tuệ hầu như chưa được thực hiện do chưa có các quy định hướng dẫn về định giá một cách cụ thể và phù hợp để các bên liên quan có thể yên tâm sử dụng tài sản trí tuệ làm tài sản bảo đảm. Trong tình hình nợ xấu ngày càng gia tăng như hiện nay, để hạn chế các rủi ro, các ngân hàng ngày càng thận trọng trong việc xét duyệt các khoản vay của mình. Như vậy, một DN sản xuất, kinh doanh thông thường đã khó tiếp cận vốn thì các DN sản xuất, kinh doanh dựa trên tài sản trí tuệ sẽ càng khó tiếp cận vốn hơn.

Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về định giá tài sản trí tuệ

Nhóm giải pháp kiến nghị đối với Nhà nước

Thứ nhất, chú trọng xây dựng và thực thi các chính sách khuyến khích việc khai thác các khía cạnh thương mại của tài sản trí tuệ. Đây là cơ sở để hoạt động định giá tài sản trí tuệ phát triển. Ở Trung Quốc, để khuyến khích việc khai thác và sử dụng tài sản trí tuệ, Nhà nước đã sớm ban hành các chính sách về thương mại hóa tài sản trí tuệ và định giá tài sản trí tuệ. Năm 2005, Quốc Vụ viện đã triển khai ban hành và thực hiện Chiến lược sở hữu trí tuệ quốc gia.

Trung Quốc đã ban hành mới Luật Công ty quy định về tỷ lệ góp vốn vào công ty bằng tài sản trí tuệ chiếm 70% vốn đăng ký (trước đó tỷ lệ này là 20%). Ở các khu công nghiệp phát triển thì quy định còn tiến bộ hơn, không hạn chế tỷ lệ góp vốn bằng tài sản trí tuệ. Quy định pháp luật và thực tiễn đã nâng cao tầm quan trọng của tài sản trí tuệ, tạo ra những điều kiện căn bản cho việc phát triển hoạt động định giá tài sản trí tuệ.

Năm 2006, Bộ Tài chính và Cơ quan sở hữu trí tuệ Trung Quốc đã ban hành “Thông báo về một số vấn đề liên quan đến tăng cường công tác quản lý định giá tài sản trí tuệ”, trong đó quy định về các trường hợp phải định giá tài sản trí tuệ: Các trường hợp sử dụng tài sản trí tuệ để góp vốn vào công ty TNHH hoặc công ty cổ phần, thế chấp tài sản trí tuệ mà không có giá tham chiếu trên thị trường, thì phải yêu cầu định giá; các cơ quan hành chính phát mại, chuyển nhượng, trao đổi tài sản trí tuệ, các đơn vị sự nghiệp, DNNN chuyển đổi cơ cấu, hợp nhất, chia tách, giải thể, đầu tư, chuyển nhượng, trao đổi, phát mại, trả nợ… có yếu tố liên quan đến tài sản trí tuệ; DNNN thu mua hoặc trao đổi để lấy tài sản trí tuệ từ các DN ngoài nhà nước, hoặc nhận góp vốn bằng tài sản trí tuệ của các DN ngoài nhà nước, DNNN muốn cho các công ty, DN, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân nước ngoài sử dụng tài sản trí tuệ mà trên thị trường không có giá trị tham chiếu; các hoạt động tố tụng tại tòa án, cơ quan trọng tài hoặc theo yêu cầu của đương sự có liên quan đến tài sản trí tuệ…

Thông báo này còn quy định việc định giá tài sản trí tuệ phải được tiến hành bởi các tổ chức định giá tài sản do Bộ Tài chính phê chuẩn. Các tổ chức định giá này trong quá trình thực hiện hoạt động nghiệp vụ của mình có thể mời các chuyên gia về sáng chế, nhãn hiệu, bản quyền… hỗ trợ về mặt chuyên môn, nhưng không vì thế mà được giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý cho những cán bộ làm công tác định giá.

Để tăng cường hoạt động này, Bộ Tài chính và Cơ quan sở hữu trí tuệ thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn về định giá tài sản trí tuệ, tổ chức thi sát hạch và cấp chứng chỉ, đảm bảo chất lượng đào tạo, không ngừng nâng cao năng lực và trình độ cho các cán bộ chuyên trách định giá tài sản trí tuệ.

Tham khảo kinh nghiệm từ Trung Quốc, để thúc đẩy việc khai thác tài sản trí tuệ, đưa khoa học và công nghệ trở thành động lực tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, Việt Nam cần chú trọng xây dựng các văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh khía cạnh kinh tế của tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có các quy định về vấn đề kiểm soát giá trị tài sản trí tuệ, như: tạo dựng, khai thác, duy trì, phát triển, kiểm tra và xác định giá trị của tài sản trí tuệ. Từ đó, tạo điều kiện cho các DN tự xác định giá trị tài sản trí tuệ để ghi nhận trong báo cáo tài chính và thực hiện các giao dịch về tài sản trí tuệ.

Thứ hai, để tạo sự thống nhất trong hệ thống các văn bản quy định về tài sản trí tuệ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc nghiên cứu và áp dụng pháp luật về định giá tài sản trí tuệ, cần đưa các quy định về định giá tài sản trí tuệ vào một văn bản thống nhất, theo hướng: Xây dựng một nghị định của Chính phủ quy định về định giá tài sản trí tuệ. Giải pháp này không chỉ giải quyết được những mâu thuẫn và bất cập trong các văn bản về định giá tài sản trí tuệ mà còn là chuẩn mực để việc định giá tài sản trí tuệ trong thời gian tới đồng bộ hơn. 

Thứ ba, cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực thực hiện định giá tài sản trí tuệ. Theo đó, Nhà nước cần có kế hoạch đào tạo, tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn về định giá tài sản trí tuệ, tổ chức thi sát hạch và cấp chứng chỉ, đảm bảo chất lượng đào tạo không ngừng nâng cao năng lực và trình độ nguồn nhânlực cho hoạt động định giá tài sản trí tuệ.

Thứ tư, cần triển khai các chương trình hỗ trợ phát triển và khai thác tài sản trí tuệ như chương trình hỗ trợ vay vốn thế chấp bằng tài sản trí tuệ… để khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động đầu tư, kinh doanh dựa trên tài sản trí tuệ.

Nhóm giải pháp kiến nghị đối với các DN

Thứ nhất, DN cần nâng cao nhận thức về vai trò của tài sản trí tuệ và định giá tài sản trí tuệ đối với sự phát triển DN. Việc không chú trọng tới giá trị các tài sản trí tuệ chính là nguyên nhân dẫn đến những sự thất thoát nguồn vốn, thiệt hại lợi ích của DN trong các hoạt động cổ phần hóa, liên doanh, mua bán, sáp nhập DN thời gian vừa qua.

Để có thể quản lý và khai thác giá trị các tài sản trí tuệ một cách hiệu quả, các DN cần phải chú trọng việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng chiến lược quản lý, kiểm soát tài sản trí tuệ phù hợp để phản ánh đầy đủ và chính xác giá trị tài sản vô hình nói chung và tài sản trí tuệ nói riêng.

Thứ hai, DN cần xác định xem những loại tài sản trí tuệ nào cần được định giá. Hiện nay, nhiều DN rất lúng túng trong việc xác định xem nên định giá những loại tài sản trí tuệ nào. Một trong những kinh nghiệm quý báu của các chuyên gia định giá cho thấy, trước khi muốn định giá một tài sản trí tuệ nào, DN cần xác định: Tài sản có khả năng nhận diện không; Tài sản có tạo ra các lợi ích cho DN không; Tài sản có được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không; Tài sản có thể được chuyển nhượng không. 

Tài liệu tham khảo:

1. Quốc hội (2012),Luật Giá năm 2012;

2. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự năm2005;

3. Quốc hội (2005), Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005;

4. Quốc hội (2006), Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006;

5. Bộ Tài chính (2013), Thông tư 45/2013/TT-BTC ngày 25/4/2013 hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định;

6. Bộ Tài chính (2014), Thông tư 127/2014/TT-BTC ngày 05/09/2014 hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.