Kết quả 5 năm triển khai chủ trương chống “vàng hóa” và định hướng cho bối cảnh mới

PGS., TS. NGUYỄN ĐỨC TRUNG , ThS. PHẠM ĐỨC ANH

Quản lý thị trường vàng luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà điều hành chính sách, do tầm ảnh hưởng của thị trường này đối với nhiều biến số vĩ mô quan trọng của nền kinh tế cũng như đối với đại bộ phận dân cư. Bài viết phân tích cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn quản lý thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước, để thấy rõ hơn về kết quả triển khai các chính sách về vàng trong giai đoạn 2012-2017.

Nếu như giai đoạn năm 2012 trở về trước, giá vàng trong nước liên tục biến động do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ diễn biến giá vàng thế giới, thì kể từ thời điểm Ngân hàng Nhà nước triển khai một loạt các biện pháp quản lý, điều hành thị trường vàng mà điển hình là Nghị định 24/2012/NĐ-CP, thị trường vàng trong nước đã dần trở về trạng thái ổn định, hiện tượng “vàng hóa” nền kinh tế theo đó cũng được giảm thiểu. 

Cơ sở cho sự ra đời Nghị định 24/2012/NĐ-CP

Kể từ khi Nghị định 174/1999/NÐ-CP ra đời, thị trường vàng Việt Nam nhìn chung đã được cải cách theo hướng tự do hóa, vấn đề quản lý đối với vàng tiền tệ và vàng phi tiền tệ đã được phân tách. Theo đó, vàng tiền tệ được quản lý chặt chẽ theo quyết định về quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia, còn việc quản lý vàng phi tiền tệ được nới lỏng với việc vàng miếng được coi là hàng hóa thông thường. Căn cứ định hướng tự do hóa thị trường vàng, các hoạt động trên thị trường vàng diễn ra ngày càng sôi động, đặc biệt với sự ra đời của hoạt động kinh doanh vàng tài khoản ở trong nước và nước ngoài năm 2006.

Tuy nhiên, việc nới lỏng quản lý đối với vàng phi tiền tệ đã gây nên những tác động tiêu cực, nhất là trong thời điểm giá vàng biến động mạnh. Các đối tượng có hành vi làm giá, đầu cơ gây khan hiếm cung giả tạo, đồng thời tung tin đồn gây nên “cơn sốt vàng” khiến người dân đổ xô đi mua vàng. Khi giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới, ngay lập tức xuất hiện tình trạng thu gom ngoại tệ trên thị trường tự do để nhập lậu vàng nguyên liệu, sản xuất vàng miếng từ nguồn vàng nhập lậu, từ đó gây ảnh hưởng bất lợi tới tỷ giá, thị trường ngoại tệ, đẩy mặt bằng giá hàng hóa nhập khẩu lên cao, làm gia tăng lạm phát trong nền kinh tế và gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Ngoài ra, do bất cập của việc cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD) huy động và cho vay vốn bằng vàng và chuyển đổi vàng thành tiền theo Quyết định 432/2000/QĐ-NHNN đã dẫn đến tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế, vàng miếng dần trở thành phương tiện thanh toán, gây khó khăn cho quản lý của nhà điều hành.

Để khắc phục những lỗ hổng pháp lý của giai đoạn trước, Nghị định 24/2012/NĐ - CP ngày 03/04/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và Thông tư 16/2012/TT-NHNN ngày 25/5/2012 hướng dẫn một số điều của Nghị định 24/2012/NĐ - CP được ban hành với chủ trương chuyển quan hệ “huy động, cho vay vốn bằng vàng” sang quan hệ “mua, bán vàng”.

Nghị định 24/2012/NĐ - CP chính thức công nhận và bảo vệ quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức và cá nhân. NHNN được giao là cơ quan thay mặt Chính phủ thống nhất quản lý các hoạt động kinh doanh vàng theo quy định và Nhà nước sẽ độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, cấp giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu cho doanh nghiệp theo quy định và cấp giấy phép xuất khẩu vàng nguyên liệu cho doanh nghiệp có giấy phép khai thác vàng theo quy định. Hoạt động mua, bán vàng miếng của các tổ chức, cá nhân chỉ được thực hiện tại các TCTD và doanh nghiệp được NHNN cấp giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng. 

Sau Nghị định 24/2012/NĐ - CP, từ cuối năm 2012 đến nay, Chính phủ tiếp tục ban hành các văn bản quản lý thị trường vàng nhằm triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý thị trường vàng như: Xây dựng lộ trình chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của các TCTD, giám sát chặt chẽ, xử lý các vấn đề phát sinh nhằm đẩy nhanh quá trình chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng theo đó các TCTD sẽ phải tất toán trạng thái vàng trước ngày 30/6/2013... Nhìn chung, các chính sách này đã tác động tích cực đến thị trường nhằm đạt được mục tiêu bình ổn thị trường và chống vàng, hóa nền kinh tế, huy động nguồn lực vàng trong dân chúng phục vụ sản xuất. Thị trường ổn định trở lại, hiện tượng mua bán vàng ồ ạt mỗi khi giá vàng biến động thường thấy trước đây trong dân đã giảm mạnh, giá vàng trong nước thể hiện chủ yếu qua vàng SJC đã giảm và ổn định trong thời gian đầu sau khi Nghị định 24/2012/NĐ - CP được ban hành.

Kết quả 5 năm triển khai chủ trương chống “vàng hóa” và định hướng cho bối cảnh mới - Ảnh 1

 Quản lý thị trường vàng sau khi Nghị định 24/2012 ra đời

Nhờ triển khai đồng bộ các giải pháp đến nay, NHNN đã đạt một số kết quả tích cực sau:

Thứ nhất, hiện tượng liên thông có tính tiêu cực giữa giá vàng thế giới - giá vàng trong nước gần như được loại trừ, tức là giá vàng trong nước đã không còn biến động mạnh mỗi khi giá vàng thế giới chao đảo. Số liệu thống kê cho thấy, mức độ biến động của giá vàng trong nước là nhỏ hơn tương đối so với giá thế giới, nhất là từ giữa năm 2014 trở đi, qua đó thể hiện sự ổn định của giá vàng trong nước trước những biến động mạnh của thế giới. Đây được coi là kết quả tích cực từ các biện pháp bình ổn thị trường vàng của NHNN trong vòng 5 năm qua. Nếu như trước đây, mỗi khi giá vàng thế giới tăng thì giá vàng trong nước biến động liên tục trong ngày, thậm chí bảng giá niêm yết vàng thay đổi 6-8 lần/ngày, gây ra những xáo động cho thị trường vàng và thị trường ngoại hối, thì nay, với nỗ lực ngăn chặn tình trạng “vàng hóa” nền kinh tế và bình ổn thị trường vàng mà NHNN đang nỗ lực thực hiện, giá vàng trong nước giờ đây tỏ ra “ổn định” trước diễn biến khó lường của giá vàng thế giới.

Thứ hai, sự liên thông giữa thị trường vàng và thị trường ngoại tệ được giảm thiểu. Trước thời điểm Nghị định 24/2012/NĐ - CP ra đời, nhiều doanh nghiệp được cấp phép sản xuất vàng miếng nhận thấy, có sự chênh lệch giữa giá vàng trong nước và quốc tế, đã thu gom ngoại tệ để nhập khẩu vàng nguyên liệu, sản xuất vàng miếng trái phép. Ước tính, trước khi chấm dứt hoạt động sàn vàng và Nhà nước độc quyền xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu và sản xuất vàng miếng thì mỗi năm bình quân thị trường Việt Nam nhập khẩu 100 tấn vàng, thì có tới 70 tấn vàng là nhập lậu, tương đương 3,5 tỷ USD. Để nhập vàng không chính thức và lách thuế nhập khẩu, các đối tượng buôn lậu đã thu gom ngoại tệ để mua vàng từ nước ngoài rồi mang về sản xuất và tiêu thụ trong nước nhằm hưởng chênh lệch giá. Thực trạng này đã tác động tiêu cực đến diễn biến tỷ giá và sự ổn định của thị trường ngoại tệ, gây khó khăn cho hoạt động mua bán ngoại tệ, tạo áp lực cho điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá.

Thứ ba, mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá VND/USD trở nên dần mờ nhạt sau khoảng 3 năm, kể từ khi Nghị định 24/2012/NĐ – CP có hiệu lực thi hành. Hình 2 cho thấy, trong giai đoạn từ tháng 1/2012 đến tháng 9/2015 (giai đoạn sàn vàng vẫn còn hoạt động), tỷ giá USD/VND biến động khá mạnh trước biến động của giá vàng trong nước (hệ số tương quan = - 0,855). Theo đó, mỗi khi chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới nới rộng, các doanh nghiệp thường thu gom ngoại tệ để nhập khẩu vàng, hoặc xảy ra tình trạng nhập lậu vàng nhằm hưởng chênh lệch giá, điều này gây áp lực lớn lên thị trường ngoại tệ, khiến tỷ giá biến động mạnh.

Tuy nhiên, từ tháng 10/2015 đến nay, nhìn chung mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá VND/USD không còn rõ rệt như trước đây, hệ số tương quan giảm còn 0,332 (về giá trị tuyệt đối). Bên cạnh nhân tố hỗ trợ khác như nguồn cung ngoại tệ từ kiều hối khá dồi dào, lãi suất thực dương VND được duy trì trong một thời gian dài, lạm phát tương đối ổn định.

Kết quả 5 năm triển khai chủ trương chống “vàng hóa” và định hướng cho bối cảnh mới - Ảnh 2

Nhìn chung thị trường vàng những năm qua đã được quản lý chặt chẽ và hiệu quả, giảm thiểu tối đa ảnh hưởng đến mục tiêu các quyết sách vĩ mô khác của Chính phủ, NHNN và Bộ Tài chính. Tuy nhiên, không thể phủ nhận việc thực hiện Nghị định 24/2012/NĐ - CP và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng đã gây ra một số xáo trộn trên thị trường. Cụ thể, khi vàng SJC được NHNN chọn làm thương hiệu vàng quốc gia đã dẫn đến hiện tượng phân biệt đối xử giữa vàng SJC và vàng phi SJC, gây ra những xáo trộn trên thị trường, làm nảy sinh nhu cầu chuyển đổi vàng phi SJC sang vàng SJC, dẫn tới hiện tượng giá vàng SJC được đẩy lên cao hơn thường ở mức chênh 1 triệu đồng/lượng so với vàng SJC, có lúc còn nới rộng ra tới 3 triệu đồng/lượng. Hơn nữa, điều này cũng đã làm xuất hiện vàng nhái SJC, gây thiệt hại cho người dân và gây khó khăn trong kiểm soát nguồn cung điều tiết thị trường vàng của NHNN.

Bên cạnh đó, hiện tượng chênh lệch đáng kể giữa giá vàng trong nước và quốc tế vẫn diễn ra trong một số giai đoạn (ví dụ: 2013-2016). Do không phải là nước sản xuất vàng, Việt Nam không thể chi phối và kiểm soát giá vàng thế giới. Sự biến động bất thường của giá vàng thế giới luôn là yếu tố dẫn dắt biến động của giá vàng trong nước với diễn biến theo sát thị trường thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh giá vàng quốc tế, giá vàng trong nước còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác như cung cầu trên thị trường trong nước và các yếu tố về tâm lý đầu tư và đầu cơ khác, đặc biệt là yếu tố cung cầu trên thị trường vẫn giữ vai trò quyết định mức giá vàng giống như bất cứ mặt hàng nào không bị ấn định giá. Chính thực tế này đã khiến nhập lậu vàng xuất hiện trở lại để hưởng chênh lệch giá.

Giải pháp về chính sách

Qua 5 năm triển khai, không thể không phủ nhận Nghị định 24/2012/NĐ - CP đã mang lại những kết quả tích cực, song trong bối cảnh kinh tế vĩ mô - tiền tệ trong nước và thị trường vàng quốc tế diễn biến ngày càng khó lường, việc quản lý thị trường vàng trong nước trong giai đoạn tới cần phải tập trung vào mục tiêu ổn định bền vững thị trường vàng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, loại bỏ tác động của giá vàng đến tỷ giá, thị trường tiền tệ, ngoại hối và ổn định vĩ mô. Vì vậy, trong tháng 12/2017, Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 24/2012/NĐ - CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã được NHNN lấy ý kiến rộng rãi.  

Một trong những nội dung Dự thảo sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ - CP được đặc biệt quan tâm là tại Khoản 3, Điều 4 được sửa đổi, bổ sung: “Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, huy động vàng từ tổ chức, cá nhân, kinh doanh vàng trên tài khoản”. Quy định này được đưa ra nhằm đảm bảo lợi ích chung cho nền kinh tế, trật tự an toàn xã hội. Như chúng ta đã thấy, vàng tài khoản vốn là vàng phi vật chất, nếu cho phép doanh nghiệp và người dân kinh doanh sẽ dễ dẫn tới hiện tượng dựa trên các chỉ số để “lướt sóng”, tạo ra giá trị ảo, gây mất an ninh trật tự xã hội.

Kết quả 5 năm triển khai chủ trương chống “vàng hóa” và định hướng cho bối cảnh mới - Ảnh 3
 
Trên thực tế, trong giai đoạn khủng hoảng 2007-2009, một số sàn giao dịch vàng trong nước đã xuất hiện và hoạt động dưới hình thức tự phát. Các giao dịch quy mô lớn trên sàn vàng ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô, làm giảm hiệu quả của các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, tiềm ẩn rủi ro, thị trường vàng bị lũng đoạn bởi các nhà đầu tư có tiềm lực lớn với các cơn sóng vàng ảo. Do đó, nếu Nhà nước không độc quyền thực hiện huy động vàng từ tổ chức, cá nhân và hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản, tình hình kinh tế - xã hội sẽ đối mặt với nguy cơ bất ổn giống như giai đoạn trước đây, đồng thời chủ trương chống “vàng hóa”, “đô la hóa” của NHNN nhằm huy động nguồn lực vàng vào sản xuất kinh doanh cũng sẽ gặp nhiều khó khăn.

Việc quy định độc quyền thực hiện 2 hoạt động huy động vàng từ tổ chức, cá nhân và hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản nhằm tiếp tục duy trì các kết quả tích cực đã có từ Nghị định 24/2012/NĐ - CP, không ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, không làm tăng sức hấp dẫn của vàng  miếng và nguy cơ “vàng hóa” trong nền kinh tế.

Tóm lại, Nghị định 24/2012/NĐ – CP của Chính phủ cùng một số văn bản pháp lý hỗ trợ khác đã và đang đóng vai trò hết sức quan trọng trong định hướng mới về quản lý thị trường vàng và đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng. Thực tế, sau 5 năm kể từ thời điểm hiệu lực của Nghị định 24/2012/NĐ - CP, việc thanh toán bằng vàng đã giảm mạnh do người dân không còn quá tập trung vào vàng, một phần giảm lượng cầu từ người dân, một phần khác giúp thị trường giải tỏa những cú sốc như trước đây do mỗi lần đổ xô đi mua/bán vàng mỗi lần giá vàng giao động, từ đó tỷ giá cũng được giữ bình ổn hơn, qua đó VND dần lấy lại niềm tin của người dân. Việc chấm dứt hoạt động huy động và cho vay bằng vàng và chuyển hướng sang quan hệ mua bán cũng đã giúp lượng vàng vốn “nằm im” trong dân được đưa vào nền kinh tế phục vụ sản xuất kinh doanh. 

So với Nghị định 174/1999/NÐ-CP, Nghị định 24/2012/NĐ - CP rõ ràng đã quản lý chặt chẽ và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng hơn, qua đó tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức lại thị trường vàng theo hướng phát triển ổn định và bền vững, tăng cường quản lý thị trường vàng, khắc phục tình trạng đầu cơ, tích trữ, kinh doanh trái phép, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.