Đổi mới cơ chế quản lý sự nghiệp đối với các đơn vị sự nghiệp đào tạo đại học, cao đẳng công lập

ThS. Bùi Tuấn Minh

TCTC Online - Việc nghiên cứu đổi mới cơ chế quản lý tài chính trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập cho thấy một mặt cơ chế chính sách trong giai đoạn vừa qua đã phát huy tính tích cực song còn không ít những hạn chế, bất cập cần tiếp tục được đổi mới.

Thực trạng và quan điểm đổi mới

Trong những năm vừa qua, Nhà nước đã có nhiều đổi mới về cơ chế, chính sách đối với các đơn vị sự nghiệp, trong đó có các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập. Cụ thể là Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ áp dụng đối với đơn vị sự nghiệp có thu và tiếp đến là Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định Chính phủ số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao. Việc tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục trên cơ sở Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 và Nghị định số 53/2006/NĐ-CP ngày 25/5/2006 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập là những bước phát triển và hoàn thiện Nghị định 73/1999/NĐ-CP, thực hiện Nghị quyết 05/2005/NQ-CP của Chính phủ.

Với những đổi mới về cơ chế chính sách, các cở sở giáo dục đại học công lập (ĐHCL) có quyền tự chủ tài chính ngày càng cao trong việc sử dụng nguồn ngân sách nhà nước (NSNN), được tự chủ trong việc khai thác và sử dụng các nguồn thu, phát huy tiềm năng về cơ sở vật chất, tài sản hiện có, đội ngũ giảng viên để mở rộng quy mô đào tạo, đa dạng hoá các loại hình đào tạo gắn với nhu cầu của xã hội. Những hoạt động đó đã góp phần không nhỏ trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội, tăng nguồn tài chính cho nhà trường. Chênh lệch các hoạt động dịch vụ sau khi thực hiện nghĩa vụ với NSNN, nhà trường được phép trích lập các quỹ ổn định thu nhập, khen thưởng và phúc lợi để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và khen thưởng động viên kịp thời cho các tổ chức, cá nhân có thành tích trong sự nghiệp đào tạo, huấn luyện.

Bên cạnh những thành công nêu trên, cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ sở giáo dục ĐHCL hiện vẫn còn tồn tại những bất cập sau:

- Định mức phân bổ ngân sách giáo dục chưa dựa trên các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo: chưa có sự tham khảo giữa việc giao kinh phí và việc giao khối lượng và chất lượng dịch vụ đào tạo; chưa dựa trên tiêu chí đội ngũ viên chức trong biên chế được duyệt, chưa căn cứ trên điều kiện cơ sở vật chất hiện tại của nhà trường… mà phần lớn dựa vào khả năng bố trí của NSNN và nguồn thu của đơn vị.

- Việc xây dựng và thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ của hầu hết các trường công lập hiện nay chưa thật sự triệt để trong việc động viên, khuyến khích sức lao động, việc chi trả thu nhập tăng thêm vẫn mang tính bình quân chưa có cơ chế thu hút người có năng lực.

- Cơ chế học phí chưa thể hiện rõ ràng được mức độ chia sẻ giữa Nhà nước với người học.

- Công tác tự kiểm tra tài chính và giám sát tài chính của các tổ chức đoàn thể còn hạn chế, mang tính hình thức.

Để nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới, giáo dục đại học, cao đẳng ở nước ta phải đổi mới một cách mạnh mẽ, cơ bản và toàn diện. Điều này đã được thể hiện trong Nghị quyết 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, cao đẳng Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020, với quan điểm chỉ đạo chủ yếu của Nhà nước về cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp đào tạo đại học, cao đẳng:

Thứ nhất, lựa chọn khâu đột phá, lĩnh vực ưu tiên và cơ sở trọng điểm để tập trung nguồn lực tạo bước chuyển rõ rệt đối với các đơn vị sự nghiệp đào tạo đại học, cao đẳng.

Thứ hai, trên cơ sở đổi mới tư duy và cơ chế quản lý giáo dục đại học, cao đẳng, trong đó có cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ sở đào tạo đại học (ĐH), cao đẳng (CĐ), đó là kết hợp hợp lý và hiệu quả giữa việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước và việc bảo đảm quyền tự chủ, tăng cường trách nhiệm xã hội, tính minh bạch của các cơ sở giáo dục ĐH, CĐ.

Thứ ba, Nhà nước tăng cường đầu tư cho giáo dục ĐH, CĐ, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế chính sách để các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục ĐH, CĐ.

Giải pháp thực hiện

Đối với cơ chế huy động nguồn kinh phí

Định hướng của Đảng và Nhà nước trong giáo dục - đào tạo là thực hiện “xã hội hoá sự nghiệp giáo dục - đào tạo”, đa dạng hoá mục tiêu và trường lớp, đa phương hoá các hình thức huy động vốn, nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp đào tạo không chỉ từ NSNN mà là đa nguồn.

Thứ nhất, kết nối việc hợp tác, liên kết đào tạo giữa đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập với doanh nghiệp (DN), gắn kết chương trình đào tạo với thực tiễn nhằm tạo nguồn lực thông qua trả kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, cung cấp kinh phí cho việc nghiên cứu theo đặt hàng, xây dựng các phòng thí nghiệm, các trung tâm nghiên cứu trong đơn vị sự nghiệp đào tạo, hỗ trợ học bổng, kinh phí cho sinh viên thực tập, nghiên cứu trên cơ sở chất lượng, sản phẩm đào tạo, các sản phẩm nghiên cứu khoa học công nghệ (bí quyết, phát minh, sáng chế...), các sản phẩm dịch vụ (các khoá học, bồi dưỡng, tập huấn...). Song song với đó, Nhà nước có chính sách khuyến khích (ưu đãi tín dụng, thuế, hỗ trợ ngân sách đào tạo...) để huy động tối đa sự tham gia của DN thông qua liên kết DN với đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập để sinh viên thực tập; mở rộng các tổ chức hỗ trợ giáo dục đối với đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập.

Thứ hai, Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý về chính sách học phí phù hợp làm cơ sở để các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập quyết định mức thu (trên cơ sở học phí tính đúng, tính đủ), tiến tới các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập có quyền tự quyết trong việc thu hút, tự quyết định mức thu từ việc đa dạng hóa các loại hình đào tạo như: chính quy, đào tạo từ xa, đào tạo theo chương trình tiên tiến, đào tạo liên kết với nước ngoài và tận dụng các nguồn vốn nước ngoài từ việc tài trợ, viện trợ không hoàn lại và vay ưu đãi của các tổ chức quốc tế... đi đôi với việc cho vay vốn đối với sinh viên nghèo thông qua các quỹ hỗ trợ người học như: quỹ tín dụng học đường, quỹ khuyến học... nhằm tạo nguồn thu sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp đào tạo.

Thứ ba, Nhà nước tạo cơ chế bằng việc sử dụng công cụ thuế, mở rộng sự đóng góp của các nhà tài trợ đối với các đơn vị sự nghiệp đào tạo ĐH, CĐ, thông qua hoạt động cung ứng dịch vụ ra bên ngoài của các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập (số thuế mà đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập nộp (với mức hiện nay theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp là 25% có hiệu lực thi hành từ 1/1/2009) được Nhà nước cấp lại và thanh toán vào nguồn NSNN của đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập nhằm tạo nguồn kinh phí đóng góp cho các đơn vị).

Thứ tư, Nhà nước tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập thực hiện việc vay vốn của các tổ chức tín dụng, huy động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn vị để đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, đi đôi với việc tạo nguồn thu từ hoạt động này là tự chịu trách nhiệm trả nợ vay theo quy định của pháp luật. Mở rộng hệ thống tín dụng, giáo dục nề nếp văn hoá trả nợ và thiết lập một hệ thống thu nợ hiệu quả.

Thứ năm, sớm xúc tiến việc xây dựng quỹ đóng góp và hiến tặng cho các đơn vị sự nghiệp đào tạo. Việc khuyến khích các tổ chức, cá nhân vận động tài trợ theo chế độ trích thưởng, chính sách khuyến khích doanh nghiệp có thu nhập cao hỗ trợ kinh phí và nghĩa vụ đóng góp của các doanh nghiệp cho hoạt động giáo dục đào tạo.

Thứ sáu, phát huy việc dùng tài sản mua sắm hiện có từ các nguồn khác nhau, từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp kể cả từ nguồn vốn vay, vốn huy động để có thể thế chấp vay vốn theo quy định của pháp luật thực hiện nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học của các đơn vị.

Đối với cơ chế phân phối và sử dụng nguồn kinh phí

Thứ nhất, công tác lập kế hoạch tài chính và ngân sách hàng năm, trung hạn của đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập cần được sử dụng như là công cụ quản lý nhằm phối hợp, kiểm soát và đánh giá, nhằm phân tích tình hình hiện tại cũng như đề ra những kế hoạch thích hợp trong tương lai. Bởi vậy, xây dựng các chỉ số thực hiện đóng vai trò hữu ích trong việc đánh giá quản lý tài chính của các đơn vị. Đây là công việc đóng góp đáng kể cho toàn bộ công tác lập kế hoạch đối với các đơn vị sự nghiệp đào tạo. Một số chỉ số có thể nêu là:

- Tỷ lệ % số kinh phí NSNN cấp so với tổng thu nhập;

- Tỷ lệ % tiền thu từ học phí, lệ phí so với tổng thu nhập;

- Tỷ lệ % các khoản trợ cấp nghiên cứu và thu từ ký hợp đồng so với tổng thu nhập;

- Tỷ lệ % các khoản nợ dài hạn so với tổng các nguồn quỹ nói chung;

- Tỷ lệ tài sản quy ra tiền so với số nợ hiện nay.

- Tỷ lệ tài sản tính ra tiền so với tổng chi phí.

Việc xây dựng kế hoạch trung hạn là đòi hỏi tất yếu đối với các đơn vị. Xây dựng kế hoạch trung hạn là một trong những cách thức nhằm hệ thống hóa việc phát triển của các đơn vị sự nghiệp đào tạo. Trong đó cần đề ra những nguồn kinh phí và chi phí thường xuyên. Một kế hoạch có tính chiến lược được coi là khung và một hệ thống thông tin được thiết kế dựa trên các dây ngân sách chương trình để liên hệ giữa kết quả và chi phí. Việc chuẩn bị một ngân sách thể hiện việc phân bổ tối ưu nhằm đạt các mục tiêu, được trình bày thông qua các chỉ số thực hiện, bằng cách nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa các nguồn lực và kết quả dự kiến đạt được và các giải pháp khác nhau. Trước mắt, cần xây dựng bộ tiêu chí và quy trình đánh giá hiệu quả chi NSNN cho các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập để làm căn cứ đánh giá hiệu quả chi NSNN đối với các đơn vị.

Để đạt được yêu cầu trên, cần có kế hoạch kiện toàn bộ máy, tăng cường năng lực cán bộ làm công tác kế hoạch, tài chính và kế toán của các đơn vị, tăng cường bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác kế hoạch, nghiệp vụ tài chính, kế toán trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo.

Thứ hai, hoàn thiện cơ chế tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp đào tạo. Quan điểm chỉ đạo của Chính phủ trong Nghị quyết 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục ĐH, CĐ Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020, xác định: “Xoá bỏ cơ chế Bộ chủ quản; xây dựng cơ chế đại diện sở hữu Nhà nước đối với các cơ sở giáo dục ĐH, CĐ công lập”. Cơ chế kinh tế mới đã hình thành và phát triển, đó là cơ chế kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa thay thế cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, trong đó có việc động viên mọi nguồn lực của xã hội, của Nhà nước, của tập thể, của cá nhân... với cốt lõi của cơ chế mới là phát huy cao độ vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mọi chủ thể.

Để hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở đào tạo ĐH, CĐ công lập, các giải pháp đặ ra là:

Một là, thống nhất về nhận thức, đổi mới cơ chế quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp công lập nhằm nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị trong quản lý biên chế, tổ chức công việc và quản lý tài chính. Tổng nguồn kinh phí nói chung và tổng chi NSNN nói riêng cho các hoạt động của các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập sẽ tiếp tục tăng lên cùng với sự tăng trưởng của NSNN và sự phát triển của các hoạt động sự nghiệp, nhưng nội dung chi, cơ cấu chi và chính sách chi của NSNN đối với các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập sẽ phải đổi mới cho phù hợp với cơ chế mới.

Hai là, tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, trong đó có việc hoàn thiện chính sách hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, người nghèo được hưởng thụ các dịch vụ về giáo dục ĐH, CĐ, sẽ sửa đổi bổ sung chế độ về học phí và các mức phí dịch vụ khác cho phù hợp với thực tế của các vùng, miền, phù hợp với nhu cầu và khả năng chi trả khác nhau của các tầng lớp nhân dân trong xã hội.

Sửa đổi, bổ sung quy chế phân cấp quản lý biên chế, hợp đồng lao động, sắp xếp tổ chức bộ máy trong các trường, tạo quyền chủ động thực sự cho các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập trong quá trình hoạt động cung ứng dịch vụ.

Hoàn thiện cơ chế chính sách tài chính về xã hội hóa nhằm khuyến khích, thúc đẩy, mở rộng các hình thức xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, nghiên cứu khoa học... Đồng thời, hướng dẫn cơ chế tài chính đối với một số loại Quỹ nhằm huy động sự đóng góp của toàn xã hội như: Quỹ bảo trợ giáo dục, Quỹ phát triển khoa học - công nghệ...

___________________

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) Văn kiện XI, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia;

2. Nghị quyết 14/2005, Nghị quyết 11/2011 và Nghị quyết 12/2012;

3. http://vneconomy.vn;

4. http://worldbank.org.