Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam giai đoạn 2000-2013

Theo gso.gov.vn

(Tài chính) Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành vào tháng 12/1987, trở thành khuôn khổ luật pháp cơ bản đầu tiên cụ thể hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước về mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với Luật Doanh nghiệp (DN) và Luật DN sửa đổi năm 2005 đã tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tăng lên nhanh chóng.

Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam giai đoạn 2000-2013
DN FDI tăng trưởng nhanh cả về số lượng, quy mô và kết quả sản xuất kinh doanh. Nguồn: internet

Đến nay khu vực FDI đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, có vai trò đáng kể thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của nhiều ngành kinh tế, đặc biệt là các ngành thuộc công nghiệp chế biến, chế tạo, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và góp phần giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.

Một số kết quả sản xuất kinh doanh chủ yếu của các DN FDI giai đoạn 2000-2013

DN FDI tăng trưởng nhanh cả về số lượng, quy mô và kết quả sản xuất kinh doanh

Khu vực FDI tăng trưởng ổn định ở hầu hết các lĩnh vực. Tổng số DN FDI đang hoạt động trên phạm vi toàn quốc thời điểm 31/12/2013 là 9093 DN, gấp 6 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 mỗi năm tăng xấp xỉ 16%. Trong đó DN 100% vốn nước ngoài là 7543 DN (chiếm 83% toàn bộ DN FDI) gấp 8,8 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000 - 2013 mỗi năm tăng xấp xỉ 20%. Doanh nghiệp liên doanh là 1550 DN (chiếm 17% số DN FDI) gấp 2,3 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 mỗi năm tăng 6,7%. Số DN FDI đang hoạt động thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng hiện chiếm tỷ lệ cao nhất với 73% (riêng ngành công nghiệp chiếm 66,4%). Tiếp đến là khu vực dịch vụ với 25,7%. Trong khi số DN FDI hoạt động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ có 123 DN, chiếm 1,4%.

Lao động làm việc trong các DN FDI tại thời điểm 31/12/2013 trên 3,2 triệu người, gấp gần 8 lần năm 2000, trong đó DN 100% vốn nước ngoài chiếm 92% (năm 2000 là 70,2%), DN liên doanh với nước ngoài chiếm 8% (năm 2000 là 29,8%), bình quân mỗi năm thu hút thêm 216,5 nghìn lao động, góp phần đáng kể vào giải quyết việc làm của nền kinh tế. Khu vực công nghiệp và xây dựng hiện thu hút lao động khu vực FDI đạt tỷ lệ cao nhất với 91% (riêng ngành công nghiệp 90,2%).

Tổng số vốn của khu vực DN FDI sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh thời điểm 31/12/2013 là 3411 nghìn tỷ đồng, gấp 14,2 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 tăng 22,4%/năm. Trong đó vốn FDI đầu tư vào khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 55,2% (riêng công nghiệp là 54,1%); tiếp đến là khu vực dịch vụ 44,5% và khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 0,3%.

Doanh thu thuần năm 2013 của khu vực DN FDI là 3138 nghìn tỷ đồng, gấp 19,4 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 tăng 25,3%/năm. Theo khu vực, công nghiệp và xây dựng có số doanh thu FDI cao nhất với 81,5%, tiếp đến là khu vực dịch vụ 18,2% và thấp nhất là khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 0,3%.

Lợi nhuận trước thuế năm 2013 của khu vực FDI đạt 248 nghìn tỷ đồng,  gấp 11,5 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 tăng 15,4%/năm.

Đóng góp vào ngân sách Nhà nước của khu vực này năm 2013 là 214,3 nghìn tỷ đồng, gấp 9 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 tăng 18,1%/năm.

Doanh nghiệp FDI tăng nhanh về quy mô và kết quả sản xuất kinh doanh nhưng tỷ trọng chiếm trong toàn bộ khu vực DN giai đoạn 2000-2013 thay đổi không nhiều

Các chỉ tiêu cơ bản của khu vực FDI có tỷ trọng năm 2013 giảm so với năm 2000 gồm: số DN giảm từ 3,6% năm 2000 xuống 2,2%; nguồn vốn giảm từ 21,8% xuống 16,2%; lợi nhuận giảm từ 52,4% xuống 45,4%; thuế và các khoản nộp ngân sách giảm từ 39,4% xuống 30,5%. Các chỉ tiêu có tỷ trọng tăng gồm: số lao động tăng từ 11,5% lên 25,4%; thu nhập của người lao động tăng từ 18,7% lên 27,7%; doanh thu thuần tăng từ 20% lên 22%.

Doanh nghiệp FDI chủ yếu tập trung vào khu vực công nghiệp và xây dựng

Công nghiệp và xây dựng là khu vực các DN FDI đầu tư nhiều nhất. Khu vực này năm 2013 chiếm tới 73% tổng số DN FDI; 91% số lao động; 80% thu nhập của người lao động; 55,2% nguồn vốn; 81,5% doanh thu; 47,9% lợi nhuận và 81,3% nộp ngân sách nhà nước.

Khu vực FDI là khu vực sản xuất kinh doanh năng động, ổn định và hiệu quả

 Chỉ số quay vòng vốn (tính bằng doanh thu trên vốn) của khu vực FDI cao hơn các khu vực còn lại, chỉ số này của khu vực FDI năm 2013 đạt 0,9 lần (năm 2000 là 0,7 lần), trong khi khu vực DN ngoài nhà nước là 0,7 lần và thấp nhất là các DN Nhà nước (DNNN) chỉ có 0,5 lần. Hiệu suất sinh lợi trên vốn và trên doanh thu của khu vực FDI cao hơn nhiều so với các khu vực còn lại, cụ thể hiệu suất sinh lời trên vốn và trên doanh thu của khu vực FDI năm 2013 đạt 7,3% và 7,9% trong khi khu vực DNNN đạt 3,2% và 6%, thấp nhất là khu vực DN ngoài nhà nước với 0,8% và 1,2%. Thu nhập bình quân một lao động một tháng năm 2013 đạt 6,6 triệu đồng, thấp hơn mức 9,6 triệu đồng của khu vực DNNN, nhưng cao hơn mức 5,1 triệu đồng của khu vực DN ngoài nhà nước.

Quy mô đầu tư phát triển nhanh, khu vực FDI đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước

Mặc dù khu vực DN FDI chiếm tỷ trọng không cao trong toàn bộ khu vực DN về các chỉ tiêu như số DN, lao động, vốn và doanh thu, nhưng khu vực này lại chiếm tỷ trọng cao về lợi nhuận và nộp ngân sách nhà nước. Năm 2013 các DN FDI chiếm tới 45,4% tổng lợi nhuận và 30,5% tổng số nộp ngân sách nhà nước của toàn bộ khu vực DN.  

Do tăng trưởng nhanh hơn các khu vực kinh tế khác nên khu vực FDI đóng góp tỷ trọng ngày càng vào GDP. Năm 1995 tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực FDI chỉ đạt 6,3%, tăng lên 15,2% năm 2000 và 19,6% năm 2013.

Một số hạn chế của các DN FDI

Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, khu vực DN FDI thời gian qua vẫn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, đó là:

Thứ nhất, các DN FDI chủ yếu tập trung vào hoạt động gia công, lắp ráp, nguyên vật liệu chủ yếu nhập ngoại nên giá trị gia tăng chưa cao, điển hình là các hoạt động lắp ráp ô tô, xe máy, điện - điện tử, may mặc, da giầy, trong khi Việt Nam là một nước có thế mạnh về nông nghiệp thì tỷ trọng vốn đầu tư của các DN FDI vào sản xuất kinh doanh ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản rất thấp và có xu hướng giảm dần, năm 2000 chiếm 0,6% tổng vốn FDI giảm xuống còn 0,3% năm 2013.

Thứ hai, kỳ vọng rất lớn của Việt Nam là các DN FDI sẽ góp phần tích cực nhất vào việc chuyển giao công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng cho các nhà quản lý DN của Việt Nam. Đồng thời với kỳ vọng phát triển nhanh chóng các ngành có công nghệ cao, tạo ra nhiều giá trị gia tăng, giúp đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên các kỳ vọng trên hầu như còn khá lâu mới đạt mục tiêu. Tỷ lệ DN 100% vốn nước ngoài thời điểm 31/12/2013 chiếm 83% (còn lại 17% là DN liên doanh với nước ngoài), trong khi tỷ lệ này năm 2000 chỉ có 56% cho thấy mô hình liên doanh không hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài, hoặc khi mới thành lập là liên doanh để tận dụng các điều kiện thuận lợi của các đối tác trong nước về đất, miễn giảm thuế, cơ sở hạ tầng và các ưu đãi khác, dần dần mua lại toàn bộ cổ phần để trở thành DN 100% vốn nước ngoài. Các DN FDI hiện nay chủ yếu tập trung vào hoạt động ở các ngành, lĩnh vực sử dụng nhiều lao động phổ thông có chi phí nhân công thấp. Mặc dù đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã được gần 30 năm, nhưng chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp chế biến chế tạo, khai thác dầu khí, gia công, lắp ráp với các trang thiết bị, dây chuyền công nghệ trung bình hoặc đã lạc hậu.

Thứ ba, Việt Nam đã và đang áp dụng các quy định về môi trường dành cho các nước đã và đang phát triển. Tuy nhiên, vẫn còn không ít các DN FDI không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các cam kết khi đăng ký kinh doanh về đầu tư trang thiết bị và xử lý chất thải, bảo vệ môi trường. 

Trong 30 năm đổi mới, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có những đóng góp quan trọng trong tiến trình phát triển của nền kinh tế nước ta và khu vực này vẫn tiếp tục có vai trò quan trọng trong giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động; nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trong thời gian tới, Chính phủ cần tiếp tục rà soát môi trường đầu tư, tạo yếu tố minh bạch và ổn định cho các nhà đầu tư nước ngoài để Việt Nam tiếp tục là điểm đến của các nhà đầu tư.