Kết quả đạt được

Báo cáo đánh giá tổng kết thực hiện Luật Quản lý thuế của Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận định: Luật Quản lý thuế đã có những thay đổi căn bản trong phương thức quản lý thuế theo hướng chặt chẽ, hiệu quả, thống nhất chính sách quản lý thu thuế; tạo sự đồng bộ, nâng cao tính rõ ràng, minh bạch; tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của Nhà nước, xã hội trong công tác quản lý thuế; tạo môi trường thuận lợi cho người nộp thuế tuân thủ pháp luật về thuế, tự giác nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào NSNN...

Ngay sau khi Luật Quản lý thuế được Quốc hội thông qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế; Nghị định số 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 85/2007/NĐ-CP. Đồng thời, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 60/2007/TT-BTC ngày 14/06/2007 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP; Thông tư 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 hướng dẫn thi hành Luật quản lý thuế về việc đăng ký thuế; Thông tư số 157/2009/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 60/2007/TT-BTC; Thông tư 61/2007/TT-BTC ngày 14/06/2008 hướng dẫn thực hiện xử lý vi phạm pháp luật về thuế; Thông tư số 28/2011/TT-BTC ngày ngày 28/02/2011, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế, hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP và Nghị định số 106/2010/NĐ-CP… Nhìn chung, hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến quản lý thuế đã được ban hành tương đối đồng bộ, kịp thời, đầy đủ, đảm bảo đúng quy trình, khắc phục những tồn tại trong quản lý trước đây do phân tán ở nhiều văn bản, sắc thuế khác nhau.

Luật Quản lý thuế cũng chính là căn cứ pháp lý để ngành Thuế thực hiện cải cách hành chính về thuế, theo đó, đã kiến nghị và đơn giản hóa 271/330 thủ tục theo hướng đơn giản, giảm thiểu các thủ tục gây phiền hà, tốn kém về thời gian, chi phí cho người nộp thuế; ban hành cơ chế cho phép DN tự in hóa đơn, tự chịu trách nhiệm, cơ quan thuế thực hiện kiểm tra, từng bước hiện đại hóa, đẩy mạnh ứng dụng tin học trong quản lý thuế. Hệ thống pháp luật về quản lý thuế là căn cứ để cơ quan nhà nước xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý thuế; trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ, tính chủ động của người nộp thuế được đề cao thông qua cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp thuế, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế. Trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phục vụ, kiểm tra, thanh tra và thu nộp thuế được nâng cao, từng bước chuyên môn, hiện đại hóa. Đồng thời, đẩy mạnh triển khai xây dựng, ứng dụng khai thuế qua mạng góp phần giảm thiểu chi phí cho người nộp thuế giảm áp lực cho cơ quan thuế, nâng cao hiệu quả hoạt động khai thuế, nộp thuế. Công tác thanh, kiểm tra có nhiều đổi mới; công tác quản lý và thu nợ thuế được phân loại, quản lý theo dõi, đôn đốc thu nộp, từng bước xử lý dứt điểm nợ cũ, giảm thiểu phát sinh nợ mới, vì thế số nợ thuế đã giảm nhiều so với trước đây. Luật Quản lý thuế cũng đã tạo cơ sở để tăng cường cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp trong quản lý thuế; hoạt động của hội đồng tư vấn thuế xã, phường ở cơ sở đã phát huy hiệu quả, góp phần đảm bảo công khai, minh bạch, công bằng, tạo điều kiện để DN tích lũy vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng thu NSNN.

Tính tổng số thu nội địa giai đoạn 2008-2010, ngành Thuế đã thực hiện đạt 1.094.498 tỷ đồng, bằng 119,9% dự toán (tương ứng vượt gần 182 nghìn tỷ đồng); tốc độ tăng thu bình quân đạt 17,4%/năm. Trong đó, năm 2008 thu đạt 329.679 tỷ đồng, vượt 29,3% dự toán, tăng 26% so với cùng kỳ; năm 2009 thu đạt 341.249 tỷ đồng, vượt 15% dự toán, tăng 3,5% so với cùng kỳ; năm 2010 thu đạt 423.570 tỷ đồng, vượt 17,3% dự toán, tăng 24,1% so với cùng kỳ. Riêng tổng số thu nội địa năm 2011 đạt 525.000 tỷ đồng, vượt 16,3%, tăng 23,9% so với năm trước…

Với kết quả thu nội địa các năm sau khi Luật Quản lý thuế có hiệu lực đã góp phần đưa kết quả thu NSNN giai đoạn 2006-2010 đạt 2.051.887 tỷ đồng, vượt 21,2% dự toán; tỷ lệ động viên thu NSNN (trừ thu từ đất) bình quân đạt 23% (nếu loại trừ số thu từ khai thác tài nguyên dầu thô và đất đai thì tỷ lệ động viên vào NSNN đạt khoảng 20-21%, trong đó, thuế và phí đạt 18-19% GDP, phù hợp với thông lệ quốc tế từ 18-20% GDP). Cơ cấu nguồn thu đã thay đổi theo chiều hướng tích cực, tỷ trọng nguồn thu nội địa (trừ dầu thô) trong tổng thu NSNN đã tăng từ 52% năm 2006 lên 63,4% năm 2010; tỷ trọng nguồn thu từ các cơ sở kinh doanh trong tổng thu nội địa tăng từ 64,8% năm 2006 lên 69% năm 2010. Quy mô thu NSNN ngày càng lớn, số địa phương có số thu ngân sách trên 1.000 tỷ đồng/năm đã tăng từ 21 địa phương năm 2006 lên 45 địa phương năm 2010, trong đó số tỉnh, thành phố có số thu trên 3.000 tỷ đồng/năm đã tăng từ 7 lên 17 địa phương; đặc biệt, từ năm 2011 đã có 13 địa phương tự cân đối được thu - chi trên địa bàn và có điều tiết về ngân sách trung ương. Riêng số thu của ngành Hải quan giai đoạn 2006-2011 đã đạt 809,74 nghìn tỷ đồng, bằng 125,8% dự toán (tương ứng vượt 165,94 nghìn tỷ đồng), tăng gấp 3,5 lần số thu giai đoạn 2000-2005.

Một số vấn đề sửa đổi, bổ sung

Bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được khi thực hiện Luật Quản lý thuế, thực tế đã phát sinh một số vấn đề cần phải sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện Luật cho phù hợp với yêu cầu phát triển. Cụ thể như: Thực hiện Đề án 30 về Đơn giản hoá thủ tục hành chính phải tiếp tục cải cách thủ tục hành chính thuế, đi đôi với việc tạo cơ sở pháp lý để thực hiện hiện đại hoá công tác quản lý thuế như kê khai thuế điện tử, hải quan điện tử; Việc thay đổi và bổ sung của các luật chính sách thuế, và những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn thực hiện Luật Quản lý thuế cho thấy có những nội dung chưa cụ thể, chưa phù hợp và chưa sát thực tế. Vì vậy, để tăng cường tính hiệu lực, khả thi và để thống nhất với các văn bản có liên quan, nên Luật cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung; Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ngoài những tác động tích cực, hội nhập cũng làm xuất hiện những thách thức, ảnh hưởng tiêu cực cho công tác quản lý thuế (như dàn xếp tránh thuế, chuyển giá...), đòi hỏi công tác quản lý thuế phải được tiếp tục hoàn thiện về thẩm quyền, kỹ năng, biện pháp quản lý để phù hợp hơn với các chuẩn mực, thông lệ và cam kết quốc tế, góp phần tăng cường quản lý, giám sát thực thi công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia về quyền thu thuế.

Việc sửa đổi Luật Quản lý thuế nhằm đáp ứng các yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế, khắc phục một số vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện để bảo đảm thực hiện đồng bộ, đảm bảo tính thống nhất của Luật. Yêu cầu đặt ra trong việc sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế trong bối cảnh hiện nay phải phù hợp với quá trình phát triển kinh tế thị trường, chủ động đáp ứng xu hướng, yêu cầu hội nhập quốc tế.

Về tần suất khai thuế

Luật Quản lý thuế hiện hành chỉ cho phép kê khai thuế theo tháng, năm và từng lần phát sinh; gia hạn thời gian nộp thuế 05 ngày, thời hạn giải quyết hoàn thuế trước kiểm tra sau 15 ngày; thời hạn giải quyết đối với trường hợp kiểm tra trước, hoàn thuế sau 60 ngày. Các quy định này cần được sửa đổi, bổ sung để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) giảm thiểu chi phí tuân thủ pháp luật thuế phù hợp với sản xuất kinh doanh. Đối với hồ sơ hoàn thuế, Luật quy định cần có chứng từ nộp thuế trong hồ sơ đề nghị hoàn thuế và phải nộp một số bộ hồ sơ, vừa phức tạp, tốn kém vì thực tế “chứng từ nộp thuế” thì cơ quan thuế đã có dữ liệu về số tiền đã nộp của người nộp thuế. Một bất cập khác là, tại điều 66 Luật Quản lý thuế quy định, DN muốn xóa nợ tiền thuế, tiền phạt thì hồ sơ xin xóa nợ phải có “tờ khai quyết toán thuế” nhưng thực tế theo quy định của Luật Phá sản thì trường hợp DN bị phá sản, quyết định của tòa án là quyết định cao nhất. Do đó, để giảm bớt thủ tục hành chính, phù hợp với quy định của Luật Phá sản, cần nghiên cứu, sửa đổi để đơn giản bớt thủ tục.

Về chây ì, nợ thuế đối với hàng xuất nhập khẩu

Theo Điều 42 của Luật hiện hành, thời hạn nộp thuế đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu đã giúp DN chủ động và linh hoạt sử dụng các luồng tiền để nộp thuế. Tuy nhiên, do cơ chế thông thoáng trong thành lập DN và DN có thể không thường xuyên thực hiện xuất nhập khẩu nên có tình trạng lợi dụng quy định trên để chây ì, nợ thuế, sau đó bỏ trốn hoặc tự giải thể… Vận dụng kinh nghiệm của một số nước phải nộp thuế trước khi nhận hàng nhập khẩu hoặc cho nộp chậm nhưng phải có bảo lãnh… Dự thảo đã đề nghị sửa đổi Điều 42 theo hướng: Người nộp thuế phải nộp thuế trước thời điểm thông quan hoặc giải phóng hàng và áp dụng ân hạn nộp thuế chỉ khi có bảo lãnh của tổ chức tín dụng (275 ngày đối với nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, 15 ngày đối với hàng hoá tạm nhập tái xuất, 30 ngày đối với trường hợp khác). Đến ngày cuối cùng của thời hạn bảo lãnh ghi trên thư bảo lãnh nếu người nộp thuế chưa nộp tiền thuế, tiền chậm nộp (nếu có), tổ chức nhận bảo lãnh phải nộp đủ tiền thuế và tiền chậm nộp (nếu có) theo mức 0,07%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp thay cho người nộp thuế.

Đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế

Nghị quyết của Chính phủ đã yêu cầu tạo thuận lợi cho DNNVV được kê khai thuế GTGT 03 tháng/lần, còn các DN lớn kê khai 01 tháng/lần. Theo quy định của Luật Quản lý thuế hiện hành, chỉ quy định kê khai theo tháng, khai theo năm hoặc theo từng lần phát sinh nghĩa vụ thuế, chưa có quy định khai theo quý. Do đó, chưa có cơ sở để quy định cho các DNNVV được kê khai thuế theo quý. Vì vậy, Dự thảo Luật bổ sung quy định việc khai thuế theo quý tại các điều khoản liên quan về hồ sơ khai thuế, thời gian khai thuế, thời gian gia hạn nộp hồ sơ khai. Việc sửa đổi cho phép người nộp thuế quy mô vừa và nhỏ được khai thuế theo quý vừa có ý nghĩa thiết thực là làm giảm chi phí hành chính của người nộp thuế, hỗ trợ người nộp thuế được dãn luồng tiền nộp thuế, vừa đáp ứng yêu cầu thông lệ quốc tế, vừa nâng cao tính hấp dẫn của môi trường kinh doanh.

Cải cách công tác hoàn thuế

Dự thảo cũng rút ngắn thời hạn giải quyết đối với trường hợp “hoàn thuế trước, kiểm tra sau” từ 15 ngày làm việc xuống còn 6 ngày làm việc; giảm thời hạn giải quyết đối với trường hợp “kiểm tra trước, hoàn thuế sau”, từ 60 ngày xuống 40 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ. Rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục gia hạn nộp hồ sơ khai thuế từ 05 ngày làm việc ngày xuống 03 ngày làm việc. Dự thảo cũng bỏ “chứng từ nộp thuế” trong hồ sơ hoàn thuế. Điều chỉnh cơ chế giải quyết hồ sơ hoàn thuế theo nguyên tắc quản lý rủi ro, tạo thuận lợi hoàn thuế nhanh theo kê khai của DN và thu hẹp diện phân loại hồ sơ “kiểm tra trước, hoàn thuế sau” để tăng tính tự giác và trách nhiệm của DN… Đồng thời tại Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung đã bỏ “chứng từ nộp thuế” trong hồ sơ hoàn thuế (do Cơ quan thuế đã có chứng từ này nên không yêu cầu người nộp thuế nộp khi thực hiện các thủ tục hoàn thuế) và tại dự thảo Luật cũng quy định rõ người nộp thuế chỉ phải nộp 01 bộ hồ sơ hoàn thuế để minh bạch về quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế khi thực hiện hoàn thuế.

Một số điều khoản mới bổ sung Luật Quản lý thuế

Căn cứ từ thực tiễn và Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011-2020 đã được phê duyệt, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế có một số điều khoản mới và quan trọng như: Các quy định áp dụng cơ chế xác định trước về giá tính thuế - APA; Cơ quan thuế được quyền ấn định thuế dựa trên doanh thu trong trường hợp vi phạm pháp luật về thuế; DN phát sinh lỗ có thể bị kiểm tra định kỳ, thu hồi giấy phép kinh doanh và mã số thuế; Cơ quan thuế Việt Nam được phép thu thập các thông tin từ cơ quan thuế của những nước có ký kết hiệp định thuế với Việt Nam; Cơ quan thuế được trao quyền điều tra hình sự đối với vi phạm pháp luật về thuế. Cụ thể:

- Cơ chế xác định trước về giá tính thuế (Advance Pricing Arrangement –APA). Hiện tại, pháp luật thuế của Việt Nam chưa có quy định cho phép cơ quan thuế và người nộp thuế ký kết thực hiện Cơ chế APA. Dự thảo bổ sung một số điều khoản tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng cơ chế xác định trước về giá tính thuế tại Việt Nam. APA là một thỏa thuận có hiệu lực thi hành trong một khoảng thời gian không quá 05 năm, xác định các căn cứ tính thuế và phương pháp xác định giá thị trường của các giao dịch liên kết do cơ quan quản lý thuế xác định trước khi doanh nghiệp nộp tờ khai Thuế TNDN và tờ khai hải quan có liên quan.

Bên cạnh đó, Luật hiện hành chưa có quy định chung về nguyên tắc quản lý rủi ro để phân loại người nộp thuế nhằm quản lý chặt chẽ đối với người nộp thuế có rủi ro cao và có biện pháp ưu tiên đối với DN tuân thủ tốt. Về cơ APA trong chống chuyển giá, thực tế, theo nhận định của cơ quan thuế, thời gian gần đây nhiều DN FDI vào Việt Nam hoạt động nhưng số thuế phải nộp không tương xứng với thực tế sản xuất kinh doanh, thậm chí có tình trạng khai lỗ nhiều năm liên tục nhưng vẫn mở rộng sản xuất kinh doanh mà nguyên nhân được xác định là do DN chuyển giá. Nhưng Luật Quản lý thuế lại chưa có quy định cho phép áp dụng APA. Về cơ chế phân loại mã số, xác định giá trị, xác định xuất xứ hàng hóa trước khi làm thủ tục xuất nhập khẩu. Đây là chuẩn mực quốc tế tạo thuận lợi thương mại, giúp DN chủ động tính toán trước hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ thuế, giúp cơ quan hải quan tăng cường hiệu quả quản lý thu, giảm tối đa các trường hợp tranh chấp giữa DN và cơ quan hải quan về việc áp mã, xác định giá tính thuế, xuất xứ hàng hóa khi làm thủ tục thông quan; hoặc việc thu thập thông tin về người nộp thuế từ nguồn nước ngoài mà cơ quan thuế vẫn nhận được có sự khác biệt so với thông tin người nộp thuế khai báo, nhưng thực tế Luật Quản lý thuế hiện hành lại chưa có các quy định này, vì vậy cần nghiên cứu, bổ sung:

- Ấn định thuế TNDN dựa trên doanh thu. Cho phép cơ quan thuế được quyền ấn định thuế khi người nộp thuế vi phạm pháp luật về thuế (bao gồm cả quy định về xác định giá thị trường) theo phương pháp dựa trên doanh thu sử dụng tỷ lệ giá trị gia tăng hoặc tỷ suất lợi nhuận do Bộ Tài chính quy định áp dụng đối với từng ngành nghề và hoạt động kinh doanh cho từng thời kỳ nhất định.

- Kiểm tra định kỳ và thu hồi giấy phép kinh doanh đối với các DN phát sinh lỗ. Đưa những DN có số lỗ chiếm từ 50% trở lên nhưng chưa vượt quá số vốn chủ sở hữu vào diện phải kiểm tra thuế định kỳ, thu hồi giấy phép kinh doanh, vô hiệu hoá mã số thuế và đình chỉ việc sản xuất kinh doanh.

- Mở rộng thu thập thông tin về người nộp thuế từ nguồn ở nước ngoài. Cho phép cơ quan quản lý thếu thu thập, xử lý thông tin bao gồm cả việc thu thập và sử dụng các thông tin do cơ quan thuế của những nước đã ký kết hiệp định với Việt Nam về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thu nhập, nhằm phục vụ cho công tác quản lý thuế, trong đó có quản lý vấn đề chuyển giá.

- Giao chức năng điều tra hình sự cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế được quyền điều tra hình sự về hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, nếu trốn thuế từ 100 triệu đồng Việt Nam trở lên (khoảng 4.900 Đô la Mỹ) thì người nộp thuế có thể bị điều tra và xử lý hình sự.

- Thỏa thuận xác định giá trước. Từ những dự kiến sửa đổi, bổ sung một số quy định về thuế và xác định giá thị trường, Luật Quản lý thuế sẽ có nội dung về thỏa thuận định giá trước. Theo đó, cơ quan thuế sẽ tham khảo và tính toán, đưa ra mức thuế rồi trao đổi với nhà đầu tư trước khi đầu tư. Khi phương thức thỏa thuận giá định trước được tuân thủ nghiêm ngặt, nguy cơ điều chỉnh chuyển giá sẽ được loại trừ. DN liên quan cũng sẽ giảm bớt được thủ tục giấy tờ và tiết kiệm chi phí vì thời gian thực hiện một cuộc thanh tra chuyển giá rất dài và phải chuẩn bị rất nhiều tài liệu để xác định giá thị trường. Hơn nữa, việc ban hành quy định về APA sẽ giúp cải thiện tính minh bạch về quy trình quản lý thuế thông qua việc tham gia của cả cơ quan thuế và người nộp thuế vào một thỏa thuận ràng buộc và giúp hai bên kiểm soát và theo dõi tốt hơn các vấn đề về xác định giá thị trường. APA không chỉ tạo điều kiện giúp cho doanh nghiệp tuân thủ tốt hơn các quy định về xác định giá thị trường mà còn làm tăng khả năng chắc chắn của việc tuân thủ thông qua việc giảm thiểu hoặc tránh nguy cơ bị thanh tra về chuyển giá trong thời hạn áp dụng APA. APA cũng giúp ngăn ngừa việc đánh thuế trùng.

Luật quản lý thuế: Kết quả và những vấn đề sửa đổi, bổ sung

TS. Phạm Tiến Hưng - Học viện Tài chính

TCTC Online - Chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007, sau 5 năm đi vào cuộc sống, Luật Quản lý thuế đã tạo bước tiến quan trọng, quy định thống nhất chính sách quản lý thu, nâng cao tính minh bạch, tạo thuận lợi cho người nộp thuế; thay đổi căn bản phương thức quản lý thuế, người nộp thuế tự tính, tự khai, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm về nghĩa vụ thuế… Tuy nhiên, để tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế, Luật Quản lý thuế đang tiếp tục được sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh…

Xem thêm

Video nổi bật