Tái cấu trúc kinh tế: Thực tế Việt Nam

Tapchicongsan

Tái cấu trúc kinh tế là một quá trình và hiện đang là vấn đề nóng của nhiều nền kinh tế trên thế giới và cả của Việt Nam, gắn với hệ quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sự dịch chuyển các lợi thế so sánh trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt được thúc đẩy bởi cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu năm 2008-2009.

Tái cấu trúc kinh tế được hiểu là việc thay đổi cả về tương quan lượng và chất nền kinh tế để có cơ cấu kinh tế hiện đại, phát triển theo chiều sâu, đồng thời tiến hành những thay đổi cần thiết về môi trường thể chế để tạo điều kiện phát triển thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế trong cơ cấu mới.

Tái cấu trúc nền kinh tế là một quá trình mở, với nội dung và nhịp độ tùy thuộc sự phát triển của khoa học, công nghệ và sự dịch chuyển lợi thế cạnh tranh giữa các nước và tình hình cụ thể của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, tái cấu trúc nền kinh tế phải diễn ra trên cơ sở nhận thức mới và nội dung toàn diện, với các điểm nhấn sau:

1. Quan niệm về tái cấu trúc

Thứ nhất, coi quá trình tái cấu trúc gắn với yêu cầu hiện đại hóa và phát triển bền vững của Việt Nam trong thời kỳ mới là yêu cầu xuyên suốt trong qua trình phát triển; Coi ổn định vĩ mô và đồng thuận xã hội cao là nền tảng quan trọng nhất của sự phát triển; Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển các lĩnh vực văn hóa xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; đồng thời khắc phục tư tưởng chạy theo tốc độ mà không chú ý đúng mức đến chất lượng tăng trưởng.

Thứ hai, nhấn mạnh yêu cầu mới, quan trọng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: Theo đó, lực lượng sản xuất phải dựa vào trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao, phản ánh xu thế khoa học, công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Còn quan hệ sản xuất phải bảo đảm phát triển nhanh hài hoà các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trên cơ sở tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần, để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ chế chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân như một động lực ngày càng quan trọng của phát triển và ổn định kinh tế - xã hội…

Thứ ba, quá trình tái cấu trúc kinh tế cần có sự tham gia rộng rãi, tự nguyện của các doanh nghiệp và đối tác liên quan theo nguyên tắc thị trường, đồng thời, đề cao bàn tay nhạc trưởng thống nhất của Nhà nước thông qua các công cụ luật pháp và ngân sách nhà nước định vị lại đúng đắn hơn vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước trong quá trình tái cấu trúc kinh tế. Theo đó kinh tế nhà nước không chỉ là doanh nghiệp nhà nước, mà còn có các nguồn lực khác do Nhà nước sở hữu, gồm ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên, dự trữ quốc gia và chỉ chiếm vị trí chủ đạo trong một số lĩnh vực kinh tế thích hợp. Thông qua các chính sách phát triển và cơ chế điều tiết, phân bổ hiệu quả, các nguồn lực này sẽ là nhân tố kích hoạt, định hướng việc thực hiện chính sách cơ cấu và sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, khi nói kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo không chỉ nói riêng nguồn lực vật chất, mà phải đặt nó trong sự tác động của chính sách, khả năng sử dụng hiệu quả nguồn lực của Nhà nước. Hơn nữa, không chỉ nói đến vai trò của kinh tế nhà nước trong phát triển kinh tế, mà phải đặt trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Điều đó cũng đòi hỏi phải nhận thức và định vị lại nội dung hoạt động và cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước. Cần tăng cường gắn kết giữa các khu vực doanh nghiệp và thúc đẩy hình thành nền kinh tế với cơ cấu 2 tầng: Tầng trên là các doanh nghiệp lớn, hiện đại. Tầng dưới là các doanh nghiệp nhỏ và vừa liên kết chặt chẽ với nhau và với tầng trên. Đặc biệt, khuyến khích việc sáp nhập để phát triển các tập đoàn kinh tế lớn, đa sở hữu, kinh doanh đa ngành, hoạt động xuyên quốc gia; giảm thiểu dần các doanh nghiệp nhỏ, yếu kém sức cạnh tranh và không có triển vọng thị trường. Đồng thời, cần bắt đầu tái cấu trúc theo từng ngành và sản phẩm kinh tế chủ lực từ đó hình thành phương án chung của cả nước; mở rộng quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hình thành các sản phẩm chủ lực, quy mô lớn, có hiệu quả và phát huy lợi thế so sánh chung của đất nước, của địa phương và của doanh nghiệp; Đặc biệt, cần đề cao vai trò của SCIC (Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước) trong việc chủ động mua bán các cổ phần doanh nghiệp để định hướng và thúc đẩy quá trình này.

Thứ tư, tái cấu trúc kinh tế phải gắn với yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Tiềm lực kinh tế của đất nước, lực lượng doanh nghiệp trong nước có mạnh, nền kinh tế mới vững, vị thế trong hội nhập mới cao. Càng hội nhập có hiệu quả, Việt Nam càng có điều kiện thuận lợi để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.

Mục tiêu cao nhất của quá trình tái cấu trúc kinh tế Việt Nam theo hướng hiện đại và phát triển bền vững chính là: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”, trên cơ sở lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, đảm bảo sự thống nhất giữa kinh tế, xã hội với chính trị, quốc phòng, an ninh; gắn kết nhiệm vụ trung hạn với yêu cầu phát triển dài hạn, đồng thời phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó phải chọn đúng các khâu đột phá - những khâu hiện đang là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển mà nếu giải quyết tốt các khâu này sẽ tạo ra những tiền đề giải phóng mọi tiềm năng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển.

Kinh tế thị trường chỉ có thể được hoàn thiện khi các yếu tố, các loại thị trường được hình thành đồng bộ trong một môi trường cạnh tranh bình đẳng; Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phải gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Nhà nước phải có chính sách và công cụ hiệu quả khắc phục những mặt trái của cơ chế thị trường; phải huy động các nguồn lực để thực hiện đột phá về cơ sở hạ tầng, tập trung vào giao thông và cơ sở hạ tầng đô thị lớn; phải đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân, phát triển mạnh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; đồng thời, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ để phát triển nhanh và bền vững.

Chuyển đổi mô hình tăng trưởng là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt, nhưng không thể hành động theo ý muốn mà phải tạo ra các tiền đề và điều kiện cho quá trình chuyển đổi. Những tiền đề và điều kiện đó chính là các đột phá chiến lược. Chính vì vậy, trong thời kỳ chiến lược tới, nhất là trong những năm đầu, phải tập trung giải quyết các khâu đột phá, kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với tăng trưởng theo chiều sâu, theo hướng chuyển mạnh sang chiều sâu. Tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng là công việc đòi hỏi sự nỗ lực của các ngành, các cấp, của cộng đồng doanh nghiệp. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò mở đường và hỗ trợ còn doanh nghiệp là chủ thể, lực lượng chủ công của tiến trình này.

Giải bài toán tái cấu trúc kinh tế theo yêu cầu phát triển hiện đại và bền vững còn đòi hỏi phải coi trọng nội dung văn hóa xã hội và bảo vệ môi trường. Văn hóa với tư cách là lĩnh vực rộng lớn có nhiều nội dung gắn kết tương tác lẫn nhau, tác động mạnh đến kinh tế và mọi mặt của đời sống, đến từng con người và cả cộng đồng, hình thành nên hệ giá trị của một quốc gia, tạo ra bản sắc của một dân tộc, là yếu tố quan trọng trong tư duy phát triển. Vì vậy, cần “phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa xã hội hài hòa với phát triển kinh tế..., xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển”, cũng như bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, địa phương, trong từng dự án; đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường và phát triển các dịch vụ môi trường. Chủ động triển khai chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng; tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động có tính toàn cầu này.

Chất lượng phát triển tùy thuộc chất lượng lãnh đạo và quản lý. Nói cách khác, tiền đề để giải thành công bài toán tái cấu trúc kinh tế Việt Nam theo yêu cầu phát triển hiện đại và bền vững đòi hỏi chúng ta phải giải thành công bài toán về nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên cơ sở không ngừng hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; Đồng thời, hoàn thiện các thiết chế thực hiện dân chủ, tăng cường dân chủ trực tiếp, đề cao vai trò phản biện xã hội, trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước các cấp…

2. Tái cấu trúc ở Việt Nam

Thứ nhất, tái cấu trúc về tài chính - đầu tư: Nhà nước tập trung đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực và các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu nhất; Đồng thời, đẩy mạnh huy động nguồn lực của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển; Khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ sạch; Hạn chế đầu tư vào các ngành khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều đất, tiêu hao nhiều năng lượng; Không chấp nhận những dự án đầu tư công nghệ thấp, gây ô nhiễm môi trường. Phải giảm bớt chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư; kiên quyết cắt giảm các công trình chưa thực sự cần thiết, tập trung nguồn lực cho các dự án tạo ra năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu mới, các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu, sớm đưa vào sử dụng; giảm bội chi ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại, kiềm chế tốc độ tăng giá. Hoàn thiện cơ chế chính sách về đầu tư để huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả đầu tư; mở rộng các hình thức đầu tư theo cơ chế BOT, BT, khẩn trương ban hành quy định về hợp tác công - tư (PPP) để phát triển hệ thống giao thông, nhất là các công trình lớn. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong đầu tư, xác lập quyền sử dụng đất, thủ tục hải quan, thuế, nhằm giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp. Cải thiện khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Hướng mạnh hoạt động của Ngân hàng phát triển vào việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ; tăng nguồn kinh phí bảo lãnh tín dụng và năng lực thẩm định dự án được bảo lãnh của Ngân hàng này. Ưu tiên nguồn tín dụng cho các sản phẩm trọng điểm. Nghiên cứu việc phân bổ hạn mức tín dụng cho các khu vực doanh nghiệp theo mức đóng góp vào GDP và kim ngạch xuất khẩu.

Thứ hai, tái cấu trúc ngành, sản phẩm: Tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân, trọng tâm là phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành dịch vụ chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có khả năng cạnh tranh để có thể tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, coi trọng vai trò có ý nghĩa chiến lược lâu dài của nông nghiệp trong việc ổn định xã hội, bảo đảm an ninh lương thực và cải thiện đời sống nông dân; xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa với công nghệ cao nhằm tăng giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích đất; gắn kết chặt chẽ giữa áp dụng khoa học công nghệ với tổ chức sản xuất; giữa sản xuất, chế biến với phân phối trong một chuỗi giá trị, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các khâu trong chuỗi giá trị đó, giữa phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, phát triển công nghiệp hỗ trợ phải được coi là một nội dung trọng tâm của tái cấu trúc các ngành sản xuất công nghiệp. Tạo sự gắn kết giữa các doanh nghiệp chế tạo với doanh nghiệp lắp ráp, các doanh nghiệp trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài trong việc lựa chọn và phát triển công nghiệp hỗ trợ theo cụm nhóm sản phẩm trên cơ sở thị trường có sự định hướng của Nhà nước, tập trung vào một số sản phẩm cơ khí, thiết bị điện, điện tử, sản phẩm công nghệ thông tin... (được biết, Thủ tướng Chính phủ vừa ký Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020, mà theo đó đến năm 2015, Việt Nam sẽ hình thành và phát triển tối thiểu 10 sản phẩm quốc gia do các doanh nghiệp khoa học và công nghệ sản xuất dựa trên công nghệ tiên tiến); Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ; Phát triển mạnh các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa rộng như dịch vụ du lịch, dịch vụ phân phối, vận tải, dịch vụ logistics và các dịch vụ cảng biển, nhằm tận dụng vị thế địa kinh tế của nước ta trong chuỗi cung toàn cầu; Triển khai chương trình quốc gia phát triển công nghệ thông tin, phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam thành nước mạnh về công nghệ thông tin. Đẩy mạnh việc thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới. Nhà nước tăng đầu tư đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở nông thôn, đầu tư phát triển công nghệ sinh học, công nghiệp chế biến nhằm tạo ra các sản phẩm có năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng cạnh tranh. Tăng cường công tác kiểm tra theo các tiêu chuẩn an toàn và vệ sinh thực phẩm từ sản xuất, chế biến, lưu thông đến tiêu dùng. Đầu tư mạnh hơn cho hệ thống bảo quản, dự trữ để giảm hao hụt, bảo đảm chất lượng hàng hóa, điều hoà cung cầu, ổn định giá cả.

Thứ ba, tái cấu trúc về doanh nghiệp: Đẩy nhanh tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hoá và cải cách các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Phát triển mạnh kinh tế dân doanh, mỗi doanh nghiệp phải tự tái cấu trúc để thích ứng với sự thay đổi về công nghệ và thị trường nhằm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả. Các tập đoàn và tổng công ty nhà nước cần tập trung vào một số lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, phải chuyển từ hoạt động đa dạng sang chuyên môn hoá nhằm thực hiện chính sách cơ cấu; đẩy mạnh đổi mới và sáng tạo, nâng cao hiệu quả và tạo lập năng lực cạnh tranh dài hạn để có thể tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Cải cách cơ chế và tổ chức nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước, đặt doanh nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh và quy định các chỉ tiêu chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc và công khai kết quả kiểm toán.

Thứ tư, tái cấu trúc thị trường: Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường nước ngoài, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Tăng cường kiểm tra chất lượng các mặt hàng nhập khẩu, bảo vệ người tiêu dùng và khuyến khích sản xuất trong nước. Coi trọng hơn thị trường nội địa, nhất là thị trường nông thôn. Đẩy mạnh cuộc vận động người Việt Nam dùng hàng Việt Nam; phát triển mạnh hệ thống phân phối của các doanh nghiệp nước ta trên thị trường nội địa để có thể làm chủ thị trường này, tạo cơ sở vươn xa, thâm nhập sâu vào thị trường thế giới, mở rộng thị trường xuất khẩu, khai thác có hiệu quả các thị trường có hiệp định mậu dịch tự do.

Thực hiện các nội dung tái cấu trúc trên đây, về thực chất, chính là thực hiện quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và nguồn lao động chất lượng thấp sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới về khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại. Các nhân tố này liên quan chặt chẽ với nhau và tích hợp tác động, có vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động và sức cạnh tranh. Trong đó, khoa học và công nghệ là động lực quyết định; con người đóng vai trò trung tâm, là chủ thể sáng tạo và sử dụng khoa học, công nghệ, thực hiện chức năng quản lý. Có kỹ năng quản lý hiện đại mới phát huy tối đa tác động của hai nhân tố trên.

Thứ năm, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp: Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế quản lý trên nguyên tắc bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân và thúc đẩy hình thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường. Rà soát lại hệ thống phân cấp, bảo đảm tăng cường sự quản lý thống nhất của trung ương về quy hoạch phát triển, khai thác tối đa lợi thế so sánh theo tầm nhìn liên vùng nhằm tiết kiệm nguồn lực và bảo đảm quy mô kinh tế; đồng thời, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của địa phương, cơ sở. Chính sách vĩ mô phải chuyển những thông điệp rõ ràng nhằm tạo niềm tin cho thị trường và định hướng cho sản xuất kinh doanh; phải theo sát sự vận động của kinh tế thế giới và trong nước; nâng cao năng lực dự báo, chủ động, nhạy bén trong phản ứng chính sách; linh hoạt sử dụng phù hợp các công cụ của chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính khi không thực sự cần thiết; nâng cao hiệu quả bình ổn và điều hòa nguồn vốn giữa các tổ chức tín dụng của thị trường liên ngân hàng; kết hợp chặt chẽ chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ để ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát. Tăng cường giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng, các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư, bảo đảm kinh doanh trung thực, tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn. Tập trung hoàn thiện thể chế, tạo lập thị trường đất đai lành mạnh trên nguyên tắc đất đai là công thổ quốc gia và là tư liệu sản xuất chủ yếu của nông dân. Nhà nước và người giao lại quyền sử dụng đất phải là những đối tượng được hưởng lợi chủ yếu từ việc chuyển giao quyền sử dụng đất. Đây là nguyên tắc cơ bản để hình thành chính sách và thị trường đất đai. Hoàn thiện cơ chế quản lý nhằm thúc đẩy dịch vụ tài chính và kinh doanh bất động sản phát triển lành mạnh. Khẩn trương hoàn chỉnh cơ chế, chính sách phát triển và tổ chức quản lý công nghiệp hỗ trợ. Phát triển các dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp. Phát triển nhanh thị trường công nghệ. Ban hành các chính sách khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng và đổi mới công nghệ nhằm thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

Cùng với những nhiệm vụ nêu trên, phải luôn coi trọng và thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tạo môi trường hoà bình ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; Xây dựng và triển khai có hiệu quả Chiến lược an sinh xã hội 2011 - 2020, Chương trình giảm nghèo bền vững và chương trình việc làm giai đoạn 2011 - 2015; phấn đấu để năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo giảm 2% theo chuẩn mới; phát triển các loại hình bảo hiểm, mở rộng mạng lưới an sinh xã hội. Hoàn thiện chính sách khám chữa bệnh, chính sách viện phí. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các bệnh viện từ nguồn vốn Nhà nước, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng bệnh viện; tăng cường đưa bác sỹ về các bệnh viện tuyến huyện và các xã, bảo đảm sự đồng bộ giữa cơ sở vật chất, trang thiết bị với đội ngũ thầy thuốc sử dụng các trang thiết bị, cải thiện chất lượng khám chữa bệnh ở các bệnh viện tuyến dưới, giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên. Tăng cường quản lý nhà nước về thuốc chữa bệnh, về bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Thực hiện các giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng giáo dục; tiếp tục thực hiện các đề án về giáo dục đào tạo đã được phê duyệt; coi trọng chất lượng giáo dục phổ thông trên cả hai nội dung dạy chữ và rèn luyện nhân cách, dạy làm người. Trên cơ sở bảo đảm đội ngũ giáo viên, điều kiện dạy và học để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng; triển khai xây dựng một số trường đại học chất lượng cao theo chương trình hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế. Phát triển mạnh đào tạo nghề với số lượng và cơ cấu phù hợp với nhu cầu thị trường, chú trọng đào tạo nghề cho công nghiệp hỗ trợ. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực, hướng mạnh vào xây dựng văn hóa trong ứng xử, bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan, làm cho văn hóa thấm sâu vào hành vi và nếp sống của mỗi người Việt Nam. Làm tốt công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân và doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật. Triển khai Chương trình mục tiêu và Kế hoạch hành động quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng, các chương trình nâng cấp đê biển, đê sông, các giải pháp chống ngập úng cho các thành phố lớn; ứng phó có hiệu quả với thiên tai bão lũ. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng và chính quyền các cấp; phát huy vai trò của Mặt trận, các đoàn thể, nhân dân và báo chí trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện có hiệu quả các chương trình phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội; bảo đảm trật tự an toàn giao thông...