Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân

Theo Tạp chí Cộng sản

Ngày 18-3-2002, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Sau hơn 7 năm thực hiện, để có những chủ trương, chính sách sát thực cho sự phát triển tiếp theo chúng ta cần có sự nhìn nhận, đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết này.

Tình hình và kết quả thực hiện Nghị quyết

1 - Những kết quả đạt được

a - Về tổ chức quán triệt, thể chế hóa Nghị quyết

Công tác tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết trong toàn xã hội được triển khai khá tốt nên đã có nhiều chuyển biến rõ rệt trong nhận thức của cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân, có tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế tư nhân. Ngay sau khi có Nghị quyết số 14, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 11-CT/TW, ngày 8-4-2002, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết (Quyết định số 94/2002/QĐ-TTg, ngày 17-7-2002) giao nhiệm vụ cụ thể cho cán bộ, ngành, địa phương trong triển khai thực hiện. Các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể đã tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết của Trung ương; chủ động xây dựng chương trình hành động và kế hoạch thực hiện Nghị quyết... tạo sự thống nhất cao về nhận thức, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân; nhiều địa phương đã có những biện pháp cụ thể, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.

Các cơ quan thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương đã có nhiều chương trình phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức cho việc phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; không chỉ phản ánh những khó khăn, vướng mắc, các hiện tượng tiêu cực mà còn kịp thời phản ánh, đưa tin về các mô hình doanh nghiệp của tư nhân và các hộ kinh doanh cá thể làm ăn có hiệu quả, chấp hành tốt quy định của Nhà nước.

Việc cụ thể hóa các nội dung của Nghị quyết được triển khai nhanh, đồng bộ, toàn diện; môi trường thể chế đã có những bước tiến đáng kể so với trước đây và ngày càng được tiếp tục hoàn thiện, tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho kinh tế tư nhân phát triển. Trong hơn 7 năm thực hiện Nghị quyết số 14-NQ/TW, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành đã ban hành hơn 20 luật có liên quan, nhiều nghị định, đưa được nhiều nội dung của Nghị quyết vào cuộc sống. Một số địa phương đã chủ động có những cơ chế, chính sách sát với tình hình thực tế của địa phương nhưng vẫn bảo đảm trong khuôn khổ pháp luật để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển nhanh; phần lớn các địa phương đã tập trung cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư, cấp phép xây dựng, giao và cho thuê đất, đào tạo nguồn nhân lực..., bên cạnh đó, nhiều địa phương đã ban hành chính sách ưu đãi riêng nhằm thu hút đầu tư (1).

b - Những thành tựu nổi bật của kinh tế tư nhân

Sau hơn 7 năm, các doanh nghiệp của tư nhân và hộ kinh doanh cá thể đã phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, vị trí và vai trò ngày càng tăng, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội. Tỷ trọng thu ngân sách nhà nước từ khu vực kinh tế tư nhân đã tăng từ 6% (năm 2002) lên trên 11% (năm 2008). Năm 2008, khu vực kinh tế ngoài nhà nước đóng góp vào GDP 46,97%, trong đó có phần đóng góp quan trọng của kinh tế tư nhân(2); ở một số địa phương tỷ lệ này còn cao hơn, như: Thành phố Hồ Chí Minh là 51,4%, Cần Thơ là 72,86%(3); giải quyết trên 5 triệu việc làm mới, bình quân 800 nghìn lao động/năm, chiếm 50% số lao động tăng thêm của cả nước, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong giai đoạn 2000 - 2008, cả nước có trên 330.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, gần 4 triệu hộ kinh doanh cá thể. Trong 3 năm gần đây, số doanh nghiệp thành lập mới tăng gấp 1,5 lần về số lượng và gấp 5 lần về số vốn đăng ký so với giai đoạn 2000 - 2005. Tỷ lệ số lượng doanh nghiệp thành lập mới giai đoạn 2000 - 2009 tăng trung bình khoảng 22%/năm.

Năng lực của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế đã được tăng lên đáng kể. Tổng số vốn đăng ký giai đoạn 2000 - 2008 là 2.110 tỉ đồng, lớn hơn cả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cùng kỳ, vốn đăng ký bình quân tăng 61,5%. Cơ cấu về ngành, nghề, sản phẩm và quy mô vốn đầu tư của kinh tế tư nhân có nhiều thay đổi; xuất hiện nhiều ngành, nghề, sản phẩm mới, đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội ngày càng tăng cao, như bệnh viện tư nhân, trường học tư thục, doanh nghiệp làm phim tư nhân, đội bóng của doanh nghiệp tư nhân...; một số ngành, nghề trước đây chỉ do kinh tế nhà nước đảm nhận, thì nay có cả kinh tế tư nhân, như công nghiệp cơ khí, ô-tô, đóng tàu, sản xuất thép(4). Trong tổng số 500 doanh nghiệp lớn nhất nước ta, số lượng doanh nghiệp tư nhân lớn chiếm 24% (năm 2008) và 30% (năm 2009). Một số doanh nghiệp tư nhân đã phát triển thành tập đoàn kinh tế, đầu tư ra nước ngoài, với sản phẩm hàng hóa ngày càng phong phú, đa dạng, có uy tín, có thương hiệu. Nhiều doanh nghiệp của tư nhân đã tích cực tham gia xây dựng nhà tình nghĩa, các công trình văn hóa, trường học, đường giao thông nông thôn, quỹ xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện khác.

c - Công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân được chú trọng, ngày càng được hoàn thiện, chất lượng được nâng cao, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển

Việc kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân đã được quan tâm và ngày càng được hoàn thiện hơn. Nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân được Chính phủ quy định rõ ràng. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thành lập Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (nay là Cục Phát triển doanh nghiệp), Bộ Tài chính có bộ phận theo dõi trong Cục Tài chính doanh nghiệp. ở địa phương cũng tổ chức các cơ quan thực hiện nhiệm vụ này.

Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, địa phương thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch cụ thể, triển khai các chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân mà chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã đem lại kết quả tích cực.

Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương định kỳ tổ chức hội nghị toàn quốc gặp mặt doanh nghiệp, doanh nhân cả nước để lắng nghe ý kiến phản ánh của doanh nghiệp; hầu hết các tỉnh, thành phố cũng đã tổ chức các cuộc gặp mặt, đối thoại với doanh nghiệp, qua đó nắm bắt nhu cầu của doanh nghiệp, giúp giải quyết nhanh hơn những vướng mắc, sớm phát hiện những điểm còn bất cập trong cơ chế, chính sách và công tác quản lý nhà nước để điều chỉnh kịp thời; cổ vũ, biểu dương những điển hình tiên tiến; chỉ ra những điểm yếu của kinh tế tư nhân để khắc phục.

Công tác thanh tra, kiểm tra của Nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân đã có bước đổi mới và đạt kết quả tốt hơn. Tình trạng thanh tra, kiểm tra chồng chéo, gây phiền hà cho doanh nghiệp giảm nhiều. Đặc biệt đã đổi mới phương thức và công cụ quản lý, chuyển từ chế độ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”; từ thanh tra, kiểm tra từng thời điểm sang giám sát trong suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.

Công tác cải cách thủ tục hành chính đã được Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương quan tâm nhiều hơn. Đã có chương trình tổng thể về cải cách hành chính mang lại những kết quả tích cực, có tác động mạnh mẽ tới hoạt động của kinh tế tư nhân. Các bộ, ngành và địa phương đã tích cực cải cách hành chính theo hướng “một cửa liên thông”; quy định trình tự, thủ tục và thời gian giải quyết nhanh hơn; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, nhất là các thủ tục hành chính trong quản lý thuế và hải quan. Việc đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp (năm 2005) đã được cải tiến mạnh, dễ dàng, thuận tiện hơn nhiều so với trước đây. Cải thiện thủ tục gia nhập thị trường ở cả 3 khâu đầu tiên (đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế, cấp giấy phép khắc dấu) nhận được sự đánh giá cao của doanh nghiệp.

d - Sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với khu vực kinh tế tư nhân được tăng cường, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các hiệp hội đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân từng bước được nâng lên

Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đã quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp tư nhân. Do đó, số lượng tổ chức đảng, các đoàn thể và số lượng đảng viên, đoàn viên trong các doanh nghiệp ở hầu hết các tỉnh, thành phố đã tăng lên qua từng năm. Một số tổ chức đảng đã phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động chủ doanh nghiệp chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng theo quy định của Ban Bí thư, đóng góp tích cực vào sự phát triển của doanh nghiệp.

ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp, các đoàn thể nhân dân và các hiệp hội ngành, nghề bước đầu đã phát huy tác dụng đối với kinh tế tư nhân. ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp đã phối hợp chặt chẽ hơn với chính quyền địa phương và các đoàn thể, vận động nhân dân tham gia xây dựng và phát triển các loại hình doanh nghiệp; đóng góp ý kiến xây dựng, bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách và giám sát việc thi hành các chính sách, pháp luật phát triển kinh tế tư nhân; vận động các doanh nghiệp tham gia ủng hộ các quỹ từ thiện, tạo nên một phong trào rộng lớn giải quyết các vấn đề an sinh xã hội. Cả nước có trên 300 hiệp hội doanh nghiệp và câu lạc bộ doanh nghiệp và có khoảng 30% doanh nghiệp của tư nhân có tổ chức công đoàn.

2 - Các hạn chế, yếu kém

Bên cạnh những kết quả nổi bật, việc triển khai thực hiện Nghị quyết 14-NQ/TW còn một số hạn chế, yếu kém sau:

Thứ nhất, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn ở một số cấp ủy còn thiếu sự nhất quán, có lúc, có nơi chưa nhìn nhận, đánh giá đúng mức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân, nhất là trong những năm đầu thực hiện Nghị quyết. Thái độ ứng xử của một số cán bộ, công chức vẫn còn phân biệt giữa các thành phần kinh tế; chưa thực sự bình đẳng trong vay vốn tín dụng, trong việc thuê đất giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân. Việc bình xét các danh hiệu, một số giải thưởng tôn vinh doanh nghiệp, doanh nhân còn mang tính hình thức. Một số nội dung Nghị quyết đã nêu, song chưa được chú ý, đến nay vẫn chưa giao cho cơ quan nào thể chế hóa. Một số quy định pháp lý đối với doanh nghiệp còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa phù hợp với thực tiễn nên khó thực hiện.

Thứ hai, kinh tế tư nhân tuy phát triển nhưng so với các thành phần kinh tế khác và so với yêu cầu phát triển vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể là:

- Trình độ phát triển của kinh tế tư nhân còn thấp. Nhìn chung, phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, manh mún, mang nặng tính gia đình, còn ít liên kết với nhau hoặc với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể. Đa số doanh nghiệp đầu tư vào thương mại, dịch vụ, với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận trước mắt; hoạt động với mục tiêu hướng nội trong phạm vi hẹp. Trình độ công nghệ và tay nghề của công nhân chưa cao, máy móc, thiết bị lạc hậu, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp, chưa tạo được nhiều sản phẩm có uy tín, có thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước; ý thức bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng chưa cao. Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân chưa có khả năng, điều kiện để tham gia đấu thầu quốc tế.

- Quản trị nội bộ của nhiều doanh nghiệp còn yếu, nhất là loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của bản thân, thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh; cán bộ quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ phần lớn chưa qua đào tạo; quản lý tài chính còn thiếu minh bạch, số liệu báo cáo chưa phản ánh đúng thực trạng tài chính của doanh nghiệp.

- Không ít doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể trong khu vực kinh tế tư nhân còn vi phạm các quy định pháp luật, phổ biến ở các hình thức như: không có địa chỉ thực, không treo biển hiệu; thành lập doanh nghiệp để mua bán hóa đơn tài chính; buôn lậu, làm hàng giả, hàng nhái; vi phạm các quy định về thuế; thực hiện pháp luật về lao động còn nhiều sai phạm. Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, khu, cụm công nghiệp vẫn là vấn đề bức xúc hiện nay.

- Khó khăn trong việc thuê đất đai tạo mặt bằng sản xuất, kinh doanh. Việc được thuê đất đai để tạo mặt bằng cho sản xuất, kinh doanh còn ít và gặp nhiều khó khăn, đa số các doanh nghiệp có quy mô rất nhỏ, không đủ điều kiện để thuê đất và vào các khu công nghiệp(5).

- Thiếu vốn sản xuất, kinh doanh. Hầu hết các doanh nghiệp chủ yếu sử dụng nguồn vốn của gia đình, bạn bè để đầu tư sản xuất, kinh doanh. Rất khó đáp ứng đủ các điều kiện để vay vốn, nhất là vay vốn ưu đãi và vốn trung, dài hạn tại ngân hàng thương mại nhà nước. Việc định giá tài sản thế chấp vay vốn vẫn còn bất hợp lý, thủ tục vay vốn ưu đãi và thương mại đều phức tạp.

Thứ ba, công tác quản lý nhà nước chưa toàn diện, nhiều nơi còn buông lỏng, không thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân. Điều đó được thể hiện ở chỗ:

- Công tác quy hoạch, nhất là quy hoạch ngành, vùng chưa rõ, chưa cụ thể nên không đáp ứng được yêu cầu định hướng cho kinh tế tư nhân phát triển. Một số cơ quan quản lý ở địa phương (thuế, hải quan...) có lúc, có nơi còn gây khó khăn cho doanh nghiệp, còn nhiều trường hợp lợi dụng các ngành kinh doanh có điều kiện để can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp.

- Chủ trương hậu kiểm chưa được triển khai triệt để, tình trạng buông lỏng quản lý sau cấp phép còn khá phổ biến; công tác thanh tra, kiểm tra còn hạn chế, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong tổ chức thực hiện; chưa kịp thời kiểm tra, phát hiện, xử lý các sai phạm trong việc chấp hành quy định của pháp luật, nhất là việc thực hiện Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật Bảo hiểm xã hội... Sự phối hợp giữa cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế, quản lý thị trường nhiều nơi chưa chặt chẽ nên việc kiểm tra sau đăng ký kinh doanh còn ít tác dụng. Thanh tra, kiểm tra còn mang nặng tính phát hiện vi phạm hơn là hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao khả năng nhận thức và tuân thủ pháp luật. Việc thanh tra, kiểm tra kéo dài, gây phiền hà vẫn còn xảy ra ở một số nơi.

- Thủ tục hành chính tuy đã được cải cách nhưng vẫn còn một số thủ tục trùng lặp; việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý còn hạn chế; thủ tục hành chính “một cửa” nhưng còn “nhiều khóa”. Nối mạng hệ thống thông tin doanh nghiệp trên toàn quốc triển khai chậm, mới được 10/63 tỉnh, thành phố của cả nước. Nhiều doanh nghiệp vẫn phàn nàn về tình trạng thiếu thông tin, về công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách mới.

Thứ tư, hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp của tư nhân còn hạn chế, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các hiệp hội đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân còn yếu.

Một số cấp ủy chưa quán triệt sâu sắc về yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng tổ chức đảng, các đoàn thể trong các doanh nghiệp tư nhân; số tổ chức đảng, các đoàn thể nhân dân và số đảng viên, đoàn viên, hội viên trong các doanh nghiệp tư nhân còn chiếm tỷ lệ rất thấp. Nhiều tổ chức đảng còn lúng túng về nội dung và phương thức hoạt động, chưa thể hiện rõ vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở, chất lượng và hiệu quả hoạt động thấp. Số lượng doanh nghiệp tư nhân có tổ chức công đoàn còn ít. Hiện nay, mới chỉ có khoảng 30% số doanh nghiệp tư nhân có tổ chức công đoàn; nhiều nơi tổ chức công đoàn hoạt động mang tính hình thức, chưa thực sự bảo vệ quyền lợi người lao động. Nhiều hiệp hội doanh nghiệp và câu lạc bộ doanh nghiệp hoạt động còn lúng túng, vai trò đối với doanh nghiệp còn mờ nhạt. Chính quyền địa phương nhận thức về hoạt động của hiệp hội cũng chưa đầy đủ. Nghị quyết yêu cầu phải tiến hành tổng kết hoạt động của Hiệp hội Công Thương thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đến nay vẫn chưa thực hiện.

Nguyên nhân hạn chế, yếu kém

Nghị quyết số 14-NQ/TW đánh dấu một bước tiến quan trọng trong đổi mới tư duy kinh tế - xã hội, tạo môi trường kinh doanh và tâm lý xã hội thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Kinh tế tư nhân thời gian qua phát triển nhanh, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội là do chủ trương đúng đắn của Đảng, được đông đảo nhân dân đồng tình hưởng ứng. Bản thân kinh tế tư nhân đã tích cực, chủ động vươn lên, dần khắc phục những tồn tại, yếu kém, khai thác mọi tiềm năng để phát triển; các doanh nghiệp tư nhân đã từng bước xây dựng kế hoạch và chiến lược kinh doanh phù hợp với khả năng của mình.

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém là sự quan tâm và mức độ đầu tư của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân nhìn chung còn thấp. Các doanh nghiệp của tư nhân hầu hết mới được hình thành và phát triển nhanh trong mấy năm gần đây nên tài sản, vốn liếng còn ít, khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước hạn chế. Trong thời gian qua, kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động, khủng khoảng tài chính tiền tệ thế giới và những khó khăn của kinh tế vĩ mô trong nước đã tác động đến sự phát triển của kinh tế tư nhân. Hội nhập quốc tế với nhiều thách thức, cùng với môi trường cạnh tranh gay gắt đã có những tác động bất lợi đến phát triển kinh tế tư nhân.

3 - Đánh giá tiềm năng và triển vọng của kinh tế tư nhân

Trong thời gian tới, các loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp sẽ ngày càng phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, cả về quy mô lẫn hiệu quả kinh tế. Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nông thôn và thành thị tiếp tục phát triển, có vị trí quan trọng lâu dài, ngày càng lớn mạnh và làm “vệ tinh” cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Ngoài ra, sẽ có sự phát triển mở rộng và nhanh chóng của các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước; sẽ có sự xuất hiện và nhân rộng nhiều mô hình mới về sự hợp tác, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ cá thể. Trong nông nghiệp các loại hình trang trại và liên hiệp trang trại với quy mô lớn, kinh doanh tổng hợp, kết hợp công - nông - lâm nghiệp và sinh thái, sẽ ngày càng phát triển.

Doanh nghiệp kinh doanh sẽ ngày càng đa dạng và xuất hiện nhiều lĩnh vực, ngành, nghề kinh doanh mới; nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất - kinh doanh tổng hợp, đầu tư vào nhiều lĩnh vực, sản phẩm khác nhau. Cùng với sự lớn mạnh và thành công của nhiều doanh nghiệp và tập đoàn doanh nghiệp, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển mạnh, trở thành động lực của nền kinh tế, góp phần bảo đảm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhanh, bền vững. Đồng thời cũng sẽ xuất hiện ngày càng phổ biến hơn các hiện tượng phá sản, giải thể, chia tách và sáp nhập, mua bán, chuyển nhượng doanh nghiệp, cổ phần, cổ phiếu doanh nghiệp; sẽ xuất hiện những doanh nghiệp độc quyền của tư nhân, biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.

Định hướng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết

Từ tình hình kinh tế tư nhân vừa qua và đánh giá về tiềm năng, triển vọng của kinh tế tư nhân trong thời gian tới, để phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu của kinh tế tư nhân, đề nghị tiếp tục thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức để tạo sự thống nhất trong thực hiện Nghị quyết của Đảng. Tiếp tục tuyên truyền, quán triệt rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo sự đồng thuận cao hơn nữa trong xã hội; khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế, nhất là tạo việc làm và an sinh xã hội; đồng thời chủ động khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong phát triển kinh tế tư nhân, nhất là ý thức chấp hành pháp luật.

Hai là, tiếp tục thể chế hóa một số nội dung Nghị quyết. Đề nghị Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo rà soát lại các nội dung nêu trong Nghị quyết, xác định rõ những nội dung tiếp tục phải được thể chế hóa và nội dung không còn phù hợp, cần phải điều chỉnh, để tiếp tục đổi mới hơn nữa cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Cụ thể là:

- Đẩy mạnh thực hiện Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư. Sửa đổi các quy định của Chính phủ về hướng dẫn chi tiết thực hiện Luật Doanh nghiệp, bổ sung thêm các biện pháp bảo vệ nhà đầu tư, cổ đông thiểu số; cần quy định rõ việc thành lập và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, các đoàn thể trong doanh nghiệp tư nhân. Hướng dẫn việc xử lý các trường hợp doanh nghiệp vi phạm các hành vi bị cấm. Bổ sung, sửa đổi quy định của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư nhằm khắc phục những nội dung chưa rõ ràng, chồng chéo với Luật Doanh nghiệp, sửa đổi cơ chế phân cấp giữa Trung ương và địa phương trong quản lý nhà nước về đầu tư.

- Tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân.

Về chính sách đất đai, sửa đổi, bổ sung một số quy định để giải quyết những vấn đề bất cập trong thực hiện chính sách về đất đai; khẩn trương xây dựng Luật Đất đai mới thay thế Luật Đất đai năm 2003. Đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân và doanh nghiệp; rà soát, thu hồi những diện tích đất bỏ hoang, sử dụng sai mục đích theo quy định của Luật Đất đai. Sớm ban hành chính sách khuyến khích việc sử dụng đất ở những vùng đất trống, đồi núi trọc; chính sách ưu tiên đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho vùng sâu, vùng xa.

Về chính sách tài chính, tín dụng, sửa đổi các quy định chi tiết thực hiện Luật Quản lý thuế; sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán cho phù hợp với trình độ doanh nghiệp nhỏ và vừa; có cơ chế để doanh nghiệp của tư nhân được vay vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) như các doanh nghiệp nhà nước; nghiên cứu, bổ sung thêm hình thức bảo lãnh đầu tư, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, hỗ trợ chuyển giao và đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; nghiên cứu để sớm ban hành Luật Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa; khẩn trương xây dựng Quỹ Bảo hiểm xuất khẩu, Quỹ Bảo hiểm nông nghiệp; tiếp tục rà soát, bãi bỏ các khoản phí, lệ phí không hợp lý; giải quyết nhanh việc hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp. Sớm cơ cấu lại nguồn vốn đầu tư toàn xã hội theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư nguồn vốn của tư nhân; tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân nắm giữ phần vốn hợp lý tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa.

Sửa đổi, bổ sung Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Dạy nghề; sớm nghiên cứu xây dựng Luật An toàn vệ sinh lao động và các văn bản liên quan, sửa đổi các nội dung liên quan đến việc làm và tiền lương trong Bộ luật Lao động. Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện pháp luật về lao động, đề nghị xem xét, bổ sung thêm lực lượng thanh tra lao động để kịp thời xử lý những vi phạm, củng cố quan hệ lao động lành mạnh, từng bước tạo môi trường sản xuất, kinh doanh ổn định cho doanh nghiệp.

Về chính sách hỗ trợ đào tạo, khoa học và công nghệ, cần nghiên cứu có chương trình quốc gia về hỗ trợ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chương trình quốc gia về đẩy mạnh đổi mới công nghệ; đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp; thiết lập thị trường công nghệ, giúp các doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ mới; đẩy nhanh việc xây dựng “Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao năng suất, chất lượng”; đưa Quỹ Phát triển khoa học - công nghệ quốc gia vào hoạt động.

Tiếp tục hỗ trợ công tác theo dõi, phân tích và cung cấp thông tin miễn phí, hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại để tìm kiếm thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu cho kinh tế tư nhân.

Ba là, thúc đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với việc cơ cấu lại các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp tư nhân. Thực hiện đúng chính sách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; khuyến khích và mở rộng các hình thức hợp tác, liên kết, liên doanh giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo mối quan hệ hợp tác, cạnh tranh, cùng có lợi.

Bốn là, tiếp tục đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân.

Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương; thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên có thái độ ứng xử đúng đắn, tạo thuận lợi, đồng thời quản lý sâu, sát các hoạt động của kinh tế tư nhân theo quy định của pháp luật; kịp thời động viên, khen thưởng, tôn vinh những doanh nghiệp, doanh nhân thành đạt và uốn nắn những lệch lạc, sai phạm của kinh tế tư nhân, sớm có quy chế, tiêu chí thống nhất về xét thưởng, tôn vinh kinh tế tư nhân.

Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở các bộ, ngành và địa phương. Xây dựng cơ chế liên kết thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước. Tiếp tục cải cách hành chính, nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy quản lý nhà nước thông qua việc tiêu chuẩn hóa cán bộ và quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát theo cơ chế hậu kiểm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động của kinh tế tư nhân. Khen thưởng kịp thời các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương thực hiện tốt nghị quyết của Đảng.

Các tỉnh ủy, thành ủy hướng dẫn, kiểm tra các tổ chức cơ sở đảng trong khu vực kinh tế tư nhân để triển khai và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết và quy định của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân và công tác xây dựng Đảng trong khu vực này.