“Vạch lỗi” đầu tư ra nước ngoài

Theo nhandan.com.vn

(Tài chính) Tại cuộc gặp mặt các tham tán năm 2013, Cục hợp tác quốc tế (Bộ Công Thương) cho biết, hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài đã đạt được rất nhiều tiến bộ, nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định, trong đó có cả từ phía quản lý nhà nước.

 Viettel đã thành công khi đầu tư tại Campuchia. Nguồn: internet
Viettel đã thành công khi đầu tư tại Campuchia. Nguồn: internet
Hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài bắt đầu phát triển từ đầu những năm 90 và gia tăng mạnh mẽ trong thời gian vừa qua, bất chấp ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Một trong những lý do khiến đầu tư của các doanh nghiệp (DN) Việt Nam ra nước ngoài được đẩy mạnh là nhờ những tháo gỡ về mặt chính sách của Nhà nước ta.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/3/2013, các DN Việt Nam có 742 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ĐTTTRNN), với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 15,5 tỷ USD, tập trung phần lớn vào ngành công nghiệp khai khoáng với 99 dự án, tổng vốn đầu tư 4,6 tỷ USD, (chiếm 13,3% về số dự án và 46% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là ngành nông, lâm, thủy sản chế biến với 80 dự án, tổng vốn đầu tư 1,9 tỷ USD (chiếm 10,8% số dự án và 12,6% tổng vốn đầu tư); công nghiệp điện đứng thứ ba với 1,8 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 12,1%.

Các dự án ĐTTTRNN ngày càng đang dạng về ngành nghề và quy mô, phát triển rộng ở 59 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, Lào đứng vị trí thứ nhất với 227 dự án với tổng vốn đầu tư hơn 4,2 tỷ USD (chiếm 30,6% số dự án và 27,1% vốn đầu tư), Campuchia đứng thứ 2 với 129 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 2,7 tỷ USD (chiếm 17,4% số dự án và 17,6% vốn đầu tư). Tiếp theo là Nga (chiếm 15,2% vốn đầu tư), Venezuela (11,8% vốn đầu tư) và các quốc gia khác.

Các dự án này đã mang lại doanh thu ngoại tệ cho đất nước và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đặc biệt là một số dự án đầu tư trong lĩnh vực dầu khí, bưu chính viễn thông… Các hoạt động này đã giúp cho việc hình thành một đội ngũ doanh nhân Việt Nam có năng lực đàm phán trong đấu thầu quốc tế, trong liên doanh với nước ngoài để tổ chức thực hiện các dự án hợp tác đầu tư.

Tuy nhiên, hoạt động ĐTTTRNN cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định, trong đó có cả từ phía quản lý nhà nước. Thể chế chính sách đối với hoạt động ĐTTTRNN chưa thực sự hoàn chỉnh, thường đi chậm so với thực tế, do đó chưa có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của hoạt động ĐTTTRNN. Quản lý hoạt động này còn nhiều bất cập, từ khâu quản lý tiền đầu tư đến khâu hậu kiểm.

Trong khâu quản lý việc triển khai thực hiện dự án còn chưa có sự phân định rõ vai trò quản lý nhà nước của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ quản lý ngành, địa phương nơi nhà đầu tư đăng ký kinh doanh hoặc thường trú. Bên cạnh đó, việc thực hiện chế độ báo cáo của các dự án chưa đầy đủ, trong khi lại chưa có các chế tài xử lý việc nhà đầu tư nghiêm túc chế độ báo cáo. Công tác xúc tiến ĐTTTRNN cũng chưa thực hiện có hiệu quả do thiếu thông tin về chính sách đầu tư của các thị trường tiềm năng.

Các cơ quan đại diện của Nhà nước ở nước ngoài như Đại sứ quán, Tổng Lãnh sự quán, cơ quan Thương vụ chưa thực sự tham gia có hiệu quả trong việc hỗ trợ xúc tiến các dự án ĐTTTRNN. Một số cơ quan đại diện ở nhiều nước không nắm rõ được số lượng các dự án, các khó khăn thuận lợi của nhà đầu tư, trong khi đó các nhà đầu tư cũng không chủ động gặp gỡ, báo cáo tình hình hoạt động của dự án. Có thể nói, đây là nguyên nhân căn bản làm cho các nhà đầu tư lâm vào tình cảnh lạc lõng, đơn lẻ hoặc xung đột với nhau khi giải quyết những khó khăn trong việc triển khai dự án tại nước sở tại.

Chiến lược tổng thể về ĐTTTRNN của Việt Nam vẫn chưa được xây dựng, trừ ngành dầu khí đã có những kế hoạch dài hạn về ĐTTTRNN. Chính vì vậy, hiện vẫn chưa có những biện pháp hỗ trợ cụ thể, thiết thực cho sự phát triển của hoạt động ĐTTTRNN, hiện nay vẫn chủ yếu mang tính tự phát của các nhà đầu tư.

Quản lý vốn và nguồn lực ra nước ngoài của các công ty trong khối nhà nước cũng là một vấn đề quan trọng cần đặt ra. Việc thu thập các thông tin về môi trường đầu tư ở nước ngoài chưa được coi trọng, đặc biệt công tác xúc tiến ĐTTTRNN chưa được quan tâm đúng mức. Còn ở Việt Nam hiện nay, mới chỉ tập trung thực hiện xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, việc xúc tiến ĐTTTRNN còn chưa được chú trọng.

Đây là một trong những nguyên nhân căn bản khiến hoạt động ĐTTTRNN còn thiếu bài bản, thiếu sự chỉ đạo thường xuyên, DN tự khai thác thông tin tốn kém và không đầy đủ. Chính vì vậy, việc triển khai dự án đầu tư chậm còn vì nguyên nhân là do chủ đầu tư thiếu vốn, tìm hiểu môi trường đầu tư chưa kỹ lưỡng, nên gặp nhiều khó khăn và chậm tiến độ trong triển khai thực hiện dự án sau cấp phép.