Xử lý nợ xấu như thế nào?

Khánh Trung (eFinance)

Theo đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN), đến năm 2015, phải xử lý dứt điểm nợ xấu và Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp thuộc Bộ Tài chính (DATC) sẽ phải gánh vác nhiệm vụ này.

Xử lý nợ xấu như thế nào?

Tại hội thảo “Chia sẻ kinh nghiệm của Nhật Bản về quản lý nợ xấu trong quá trình tái cấu trúc DNNN” do Bộ Tài chính tổ chức, ông Kotegawa Daisuke, Chuyên gia đặc biệt của JICA trong lĩnh vực tái cấu trúc DNNN đánh giá, các khoản nợ của DNNN rất phức tạp, đan xen, chồng chéo giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với các ngân hàng. Do đó, tái cơ cấu lại DNNN không thể thành công nếu không đồng bộ với cơ cấu lại hệ thống ngân hàng.

Kinh nghiệm của Nhật Bản

Theo ông Nagase Toshio, Phó Trưởng đại diện Văn phòng JICA tại Việt Nam: Nợ xấu của Việt Nam khác với các nước khác. Nợ xấu của Việt Nam gắn với nợ của khu vực DNNN. Thêm vào đó, nợ xấu còn gắn với đầu tư công. Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam nhận dự án có vốn từ ngân sách Nhà nước và vay ngân hàng để thực hiện. Sau đó, ngân sách không có vốn để rót cho dự án, dẫn đến tình trạng nợ nần của doanh nghiệp. Món nợ này đương nhiên trở thành nợ của doanh nghiệp với ngân hàng.

“Tái cấu trúc DNNN và xử lý nợ xấu là những vấn đề nóng bỏng nhất hiện nay, không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết mà còn là một quá trình mang tính lịch sử, tại Nhật Bản chúng tôi đã mất hơn 10 năm để giải quyết nợ xấu. Bằng việc chia sẻ kinh nghiệm và thực tiễn của Nhật Bản, chúng tôi mong muốn đóng góp vào việc giải quyết nhu cầu cấp thiết trước mắt của Chính phủ Việt Nam đặc biệt là Bộ Tài chính, cĩng như chia sẻ một cánh cửa và góc nhìn cho Việt Nam cân nhắc con đường xử lý nợ xấu của chính mình. Từ kinh nghiệm của Nhật Bản, việc hợp tác và điều phối giữa những cơ quan hữu quan là hết sức cần thiết đối với sự thành công của công cuộc xử lý nợ xấu”, ông Nagase Toshio chia sẻ.

Nhật Bản từng trải qua 4 giai đoạn khủng hoảng tài chính gồm: Giai đoạn 1 (1992 - 1993), giai đoạn 2 (1995), giai đoạn 3 (1997 - 1998) và giai đoạn 4 (2001 - 2002). Trong giai đoạn 1, khủng hoảng tài chính đã làm cho nợ khó đòi tăng lên giữa các ngân hàng Nhật Bản, khiến cho giá cả tăng nhanh và nền kinh tế rơi vào tình trạng đình trệ. Tại thời điểm đó, Thủ tướng Nhật Bản Miyazawa đã đề xuất phương án bơm vốn công để bình ổn hệ thống tài chính trong nước song giải pháp này đã không được thực hiện. Tuy nhiên, sau đó Chính phủ đã triển khai gói kích cầu kinh tế. Bên cạnh đó, thông qua sáng kiến của một số ngân hàng lớn, Công ty mua tín dụng hợp tác xã (CCPC) đã được thành lập (tháng 1/1993) để mua các khoản nợ vay từ ngân hàng có thể thế chấp để thanh lý bất động sản cầm cố.

Giai đoạn thứ 2, cụ thể tháng 12/1994, hai hợp tác xã tín dụng gồm Hợp tác xã Tokyo - Kyowa và Anzen bất ngờ bị phá sản. Đây là trường hợp phá sản đầu tiên của ngân hàng trong ngành Tài chính của Nhật Bản kể từ Thế chiến thứ II. Bên cạnh đó, một số ngân hàng nhỏ và các định chế tài chính thế chấp cũng rơi vào tình trạng bi đát tương tự. Ngay sau đó, Chính phủ Nhật Bản đã thành lập “Ngân hàng tiếp quản” (ngân hàng Tokyo Kyodo) và ngân hàng này đã hợp tác với các ngân hàng lớn và Ngân hàng Trung ương Nhật Bản tiếp quản các định chế tài chính phá sản. Tháng 9/1996, Ngân hàng Tokyo Kyodo được tái cơ cấu thành “Ngân hàng Giải quyết và Thu nợ” (JRCC) để mở rộng lĩnh vực hoạt động. Tháng 12/1996, Chính phủ Nhật Bản phê duyệt bơm gói vốn công trị giá 6.850 USD tỷ USD với mục đích đền bù cho thiệt hại của các định chế tài chính thế chấp. Tuy nhiên, việc làm này đã khiến cho công luận chỉ trích gay gắt Chính phủ và giới ngân hàng.

Trong giai đoạn thứ 3, hàng loạt các định chế tài chính, trong đó có cả ngân hàng và các công ty chứng khoán lớn đã bị phá sản đồng loạt chỉ trong một thời gian ngắn. Ngay sau đó, gần như thị trường tài chính - tiền tệ Nhật Bản rơi vào tình trạng tê liệt. Trong bối cảnh đó, Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra hàng loạt các giải pháp, bao gồm: Bơm vốn công giúp tăng vốn cho một số ngân hàng lớn với khoảng 18,1 tỷ USD, xây dựng các khung pháp lý tài chính mới, áp dụng cơ chế “ngân hàng cầu nối” cho các ngân hàng gặp khó khăn, giảm mức lãi suất mục tiêu xuống con số 0…

Trong giai đoạn khủng hoảng thứ 4, Nhật Bản đã quyết định tiến hành nhiều vụ hợp nhất và sáp nhập ngân hàng, nhằm hoàn thành sớm và đầy đủ việc giải quyết nợ khó đòi ở các ngân hàng lớn, đồng thời giới hạn và thay đổi cơ chế hỗ trợ của ngân hàng. Theo đó, đối với các ngân hàng lớn, bắt buộc xóa bợ khó đòi khỏi Bảng cân đối kế toán trong 2 đến 3 năm, đưa ra mục tiêu định lượng áp dụng với các ngân hàng lớn như tỷ suất nợ khó đòi/tổng tài sản phải giảm dưới một nửa mức hiện tại tính đến năm tài chính 2004, thành lập Tập đoàn Tái thiết Công nghiệp (IRCJ) nhằm hỗ trợ các DN trong quá trình tái cơ cấu. Đặc biệt, sau khi IRCJ chính thức đi vào hoạt động, hàng loạt DN đã được đưa vào danh sách tái thiết như: 4 tập đoàn bất động sản lớn nhất nước, 4 công ty vận tải, các công ty sản xuất công nghệ cao… Động thái này của Chính phủ Nhật Bản đã tạo nên một làn sóng sáp nhập và mua bán công ty trong giai đoạn 2004 - 2006 và sau đó đã góp phần vô cùng quan trọng trong việc tái cấu trúc nền công nghiệp cũng như nền kinh tế Nhật Bản.

Ông Kotegawa Daisuke cho biết: Toàn bộ số tiền thành lập Tập đoàn Tái thiết công nghiệp Nhật Bản (IRCJ) là của các ngân hàng chứ không phải từ tiền thuế của người dân. Cách làm của IRCJ là lựa chọn các tập đoàn, công ty cần phải tái thiết, sau đó sẽ tách đơn vị ấy thành nhiều phòng, ban và đánh giá hiệu quả hoạt động của từng phòng, ban. Nếu một ban không sinh lời, tập đoàn có thể bán ban đó kèm chiết khấu dựa vào giá trị tài sản sau khi định giá. Cuối cùng, nguồn lực sẽ được một cách có chọn lọc vào những phòng, ban làm ăn có lãi hoặc có sức cạnh tranh. Trong giai đoạn 2004 - 2006, IRCJ đã tái thiết được rất nhiều doanh nghiệp, tập đoàn trong các lĩnh vực như siêu thị, mỹ phẩm, bất động sản, khách sạn, vận tải, công nghệ cao… Điều này đã tạo nên một làn sóng sáp nhập và mua bán trong giai đoạn này giúp tái cơ cấu nền công nghiệp Nhật Bản. Mục tiêu trước mắt của việc nghiên cứu nợ xấu phải vì phúc lợi quốc gia và các cơ quan quản lý cần lưu ý tránh sự tích lũy cộng dần nợ xấu, phải đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn lực khan hiếm, tránh cho sự phản đổi gay gắt của người nộp thuế vì khi nợ xấu tăng có thể sẽ dẫn đến nhiều hoạt động trong ngân hàng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người nộp thuế. Điều quan trọng là phải hiểu đúng về Bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh để tránh tình trạng doanh nghiệp quá lạc quan hoặc quá bi quan so với thực tế.

Việt Nam xử lý như thế nào?

Ngày 17/7/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 929/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 - 2015”. Đây là đề án do Bộ Tài chính xây dựng theo sự chỉ đạo của Chính phủ với mục tiêu làm cho DNNN có cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Ngoài ra, việc tái cơ cấu nhằm nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đối với doanh nghiệp kinh doanh; hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh đối với doanh nghiệp hoạt động công ích.

Theo đó, trong các biện pháp xử lý nợ xấu có biện pháp bán nợ xấu có tài sản đảm bảo cho DATC. Nhiệm vụ trên có hoàn thành được không đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của Bộ Tài chính nói riêng và Chính phủ nói chung trong giai đoạn hiện nay.

Trong giai đoạn đầu hoạt động, DATC chủ yếu tập trung hoạt động tiếp nhận và xử lý nợ theo chỉ đạo của Chính phủ. Từ năm 2007 đến nay, DATC đã hướng hoạt động vào trọng tâm chính là xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu doanh nghiệp; lũy kế từ năm 2007 đến 31/12/2011, DATC đã mua nợ để tái cơ cấu cho 72 doanh nghiệp khách nợ, gồm 44 doanh nghiệp đã hoàn thành và 28 doanh nghiệp đang triển khai, với giá trị các khoản nợ theo sổ sách kế toán hơn 6.256 tỷ đồng, giá vốn mua nợ là hơn 1.640 tỷ đồng...

Theo đánh giá DATC đã làm khá tốt khi xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu doanh nghiệp. Tuy nhiên, các trường hợp nợ xấu DATC mua lại và đã xử lý có giá trị không lớn. DATC chưa được tham gia xử lý các trường hợp phức tạp. Bên cạnh đó, phần lớn các trường hợp mới chỉ xử lý về tài chính, việc tái cơ cấu hoạt động còn hạn chế.

Ông Phạm Mạnh Thường - Phó Tổng Giám đốc DATC cho hay: Công ty đang gặp phải một số khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ mua để xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng của các doanh nghiệp. Mặc dù nợ xấu ở mức cao nhưng các ngân hàng vẫn không chịu chuyển giao hoặc bán nợ xấu cho DATC. Vì họ không có động cơ để làm điều đó. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần đưa ra một loạt các biện pháp mạnh như yêu cầu tất cả các ngân hàng và tổ chức tín dụng duy trì nợ xấu dưới mức độ an toàn. Bất kỳ tổ chức nào có nợ xấu vượt quá mức độ cho phép phải bán hoặc chuyển giao nợ xấu cho DATC hoặc bị hạn chế một số hoạt động cho đến khi xử lý được nợ xấu, giảm tỉ lệ nợ xấu xuống mức chấp nhận được để đảm bảo an toàn cả hệ thống tài chính ngân hàng. Để giúp DATC hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, cần có những giải pháp nhằm tăng cường vai trò và hoạt động của DATC, cụ thể: Thứ nhất, thống nhất định hướng, cách tiếp cận và xây dựng chiến lược cho DATC phủ hợp với tình hình kinh tế và chủ trương của Chính phủ. Thứ hai, phân công rõ ràng vai trò và giao cho DATC có những quyền hạn nhất định trong việc tái cơ cấu DNNN. Thứ ba, sửa đổi, bổ sung các quy định đang hạn chế khả năng thực hiện nhiệm vụ của DATC. Thứ tư, tăng quyền chủ động cho DATC hơn trong việc giải quyết nợ xấu, nhằm đa dạng các hình thức xử lý nợ. Thứ năm, cải thiện năng lực tài chính để từ đó DATC có thể tham gia sâu hơn vào chương trình tái cơ cấu DNNN. Thứ sáu, tăng cường quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về xử lý nợ xấu. Cụ thể, bất kỳ tổ chức nào ngân hàng nào có nợ xấu vượt qua mức cho phép thì phải bán/chuyển giao nợ xấu cho DATC hoặc bị hạn chế một số hoạt động cho đến khi xử lý được nợ xấu, giảm tỷ lệ nợ xấu đến mức chấp nhận được để đảm bảo an toàn cả hệ thống tài chính ngân hàng. Thứ bảy, ưu đãi cho các nhà đầu tư chiến lược, đặc biệt đối với trường hợp tái cơ cấu, chuyển đổi các DNNN không còn vốn nhà nước thành công ty cổ phần. Thứ tám, cải tiến cơ cấu tổ chức và nâng cao năng lực cho DATC. Theo đó, bằng việc tham gia vào bộ máy quản lý của một số DNNN, bao gồm các tổng công ty, DATC sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận được các thông tin và dữ liệu đáng tin cậy của các DNNN để hiểu hơn tình hình kinh doanh và có cách thức xử lý nợ xấu phù hợp.

Chia sẻ với báo giới bên lề hội thảo, Phó Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) Đặng Quyết Tiến nói: Hiệu quả và sức cạnh tranh của các DNNN còn thấp mặc dù có nhiều lợi thế về nguồn lực. Một số tập đoàn, tổng công ty, DNNN tiềm ẩn nguy cơ rủi ro mất cân đối tài chính, thua lỗ kéo dài. Do đó, cần chấm dứt các ưu đãi về tài chính, tín dụng đối với các DNNN. Bộ Tài chính đang nghiên cứu xây dựng cơ chế xử lý nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước qua việc nâng cao năng lực của Tổng công ty Mua bán nợ xấu (DATC). Dự kiến sẽ có nghị định riêng cho hoạt động mua bán nợ của DATC.

Ông Tiến cho rằng, để xử lý nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước nói riêng và của nền kinh tế nói chung thì phải tăng cường nguồn lực của DATC. Hiện nguồn lực của DATC là quá hạn chế với số vốn hiện có 2.500 tỉ đồng. Theo quan điểm của Bộ Tài chính, sắp tới, không chỉ nguồn lực từ ngân sách mà tiềm lực tài chính của DATC sẽ được tăng cường từ nhà đầu tư trong và ngoài nước. Bộ Tài chính đang xây dựng cơ chế để thu hút các nhà đầu tư mua nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước qua DATC.