Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng chia sẻ về "thắng lợi kép" của ngành Tài chính

Theo vietnamplus.vn

Trong những ngày đầu năm mới, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã có dịp ngồi lại với phóng viên để trải lòng về một năm đã qua với không ít điều đáng nhớ.

Trong hội nghị Chính phủ với địa phương ngày 28/12/2018, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng vui mừng thông báo, số thu ngân sách năm 2018 có thể vượt thu 80.000 tỷ đồng; trong đó, thu ngân sách Trung ương và địa phương đều vượt dự toán.

Ít lâu sau đó, con số cập nhật báo cáo Thủ tướng Chính phủ thậm chí còn cao hơn: số thu vượt dự toán hơn 100.000 tỷ đồng, đạt mốc hơn 1,4 triệu tỷ đồng.

Nhìn lại một năm theo Bộ trưởng là “thắng lợi kép,” vị tư lệnh ngành Tài chính vẫn không quên nhắc tới chuyện giải ngân vốn đầu tư công chậm, cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp chuyển biến chưa rõ nét hay nợ nước ngoài của quốc gia còn ở mức cao.

Trong những ngày đầu năm mới, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã có dịp ngồi lại với phóng viên để trải lòng về một năm đã qua với không ít điều đáng nhớ.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng.

- Nhìn lại năm 2018, về quản lý điều hành thu, chi ngân sách, ông ấn tượng nhất với kết quả nào của ngành Tài chính, thưa ông? 

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng: Cùng với những thành tích trong phát triển kinh tế-xã hội, kết quả thực hiện các nhiệm vụ tài chính–ngân sách Nhà nước trong năm 2018 cũng rất toàn diện và đáng mừng.

Cụ thể, việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ thu, chi ngân sách Nhà nước và tài chính công năm 2018 đạt kết quả khá toàn diện, đã cơ bản hoàn thành những mục tiêu quan trọng của Nghị quyết số 07/NQ-TW của Bộ Chính trị.

Cùng với kinh tế tăng trưởng cao hơn kế hoạch, kết hợp với các giải pháp đã thực hiện, thu cân đối ngân sách Nhà nước năm 2018 vượt 7,8% so dự toán trong đó thu ngân sách Trung ương vượt 4,3%, thu ngân sách địa phương vượt 12,5%.

Tỷ lệ động viên đạt khoảng 25,7%GDP, riêng thuế và phí trên 21,1%GDP (mục tiêu giai đoạn 2016-2020 tương ứng là 23,5%GDP và 21%GDP). Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách Nhà nước đạt 80,6% (năm 2015 là 75%).

Cơ cấu chi ngân sách chuyển dịch tích cực, tỷ trọng chi đầu tư phát triển đạt trên 27% (mục tiêu giai đoạn 2016-2020 là 25-26%), tỷ trọng chi thường xuyên giảm còn dưới 62% tổng chi.

Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2018 dưới 3,6%GDP (dự toán là 3,7%GDP); nợ công khoảng 61%GDP. Quản lý nợ công có tiến bộ, thời hạn khoản vay tiếp tục được kéo dài, lãi suất theo xu hướng hạ thấp, hạn chế tác động của các rủi ro.

Ngoài ra, năm 2018, Bộ Tài chính đã triển khai quyết liệt cải cách hành chính theo Nghị quyết 19-2018/NQ-CP của Chính phủ, đẩy mạnh sắp xếp lại tổ chức bộ máy, biên chế.

Trong năm 2018, Bộ Tài chính đã hoàn thành 85/85 nhiệm vụ cải cách hành chính theo kế hoạch đề ra; đã bãi bỏ 18 thủ tục hành chính trong tổng số 166 thủ tục cần rà soát bãi bỏ (chiếm 10,8%) và đơn giản hóa đối với 111 thủ tục trong tổng số 139 thủ tục cần rà soát đơn giản hóa (chiếm 79,9%). Bộ Tài chính cũng thực hiện cắt giảm và đơn giản hóa 117/190 điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý (đạt 61,6%).

Đến nay, hệ thống khai thuế qua mạng đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố với 99,92% số doanh nghiệp tham gia sử dụng dịch vụ khai thuế qua mạng. Bên cạnh đó, 98,41% doanh nghiệp đã đăng ký tham gia nộp thuế điện tử; hoàn thuế theo phương thức điện tử chiếm tỷ trọng 93,14% tổng số hồ sơ được hoàn thuế.

Cũng trong năm qua, Bộ Tài chính đã tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tài chính-ngân sách. Cụ thể, Bộ Tài chính đã thực hiện 98.660 cuộc thanh tra, kiểm tra, qua đó kiến nghị xử lý về tài chính trên 23.140 tỷ đồng. Trong số này riêng kiến nghị thu nộp ngân sách là 17.940 tỷ đồng, đã thực hiện thu vào 16.600 tỷ đồng, bằng 92,5% tổng số kiến nghị.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng cũng vẫn còn một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục, như: giải ngân vốn đầu tư công chậm; cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp chuyển biến chưa rõ nét; cơ cấu lại nền kinh tế và đầu tư công còn chậm.

Ngoài ra, nợ nước ngoài của quốc gia còn ở mức cao (khoảng 49,7%GDP, sát mức giới hạn 50%GDP); việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật tài chính ở một số đơn vị còn chưa nghiêm; tình trạng thất thoát, lãng phí còn xảy ra ở một số cơ quan, đơn vị...

- Trong báo cáo của Kiểm toán Nhà nước đánh giá tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2018, cơ quan này cho rằng, số thu vượt dự toán năm nay chủ yếu từ các nguồn thu về nhà, đất và dầu thô trong khi 3 khu vực quan trọng khác lại thấp. Ông có lo lắng về tình trạng này không và đâu là nguyên nhân các vấn đề trên? 

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng: Ngay từ đầu năm ngành Tài chính đã chỉ đạo triển khai các giải pháp quản lý thu, khai thác nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế; tăng cường thanh tra, kiểm tra thuế, đẩy mạnh chống thất thu, chuyển giá,…

Nhờ đó thu ngân sách Nhà nước năm 2018 đã hoàn thành nhiệm vụ kép, đó là thu ngân sách Nhà nước vượt khoảng 7,8% và thu ngân sách Trung ương vượt 4,3% dự toán. Kết quả này cũng cho thấy cơ cấu thu ngân sách của chúng ta ngày càng bền vững hơn, tỷ trọng thu nội địa năm 2018 chiếm 81% tổng thu, cao hơn mức 68% bình quân giai đoạn 2011 – 2015.

Số thu ngân sách từ 3 khu vực kinh tế năm 2018 đã có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm 2017. Cụ thể, khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 4%; khu vực FDI tăng 8,8%; khu vực ngoài quốc doanh tăng 15,8%. Tính chung cả 3 khu vực tăng khoảng 10%.

Như vậy, chúng ta thấy rằng thu ngân sách từ khu vực kinh tế khá phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của cả nước tăng khoảng 7,08% và lạm phát tăng khoảng 3,5%, góp phần vào việc nâng cao tính bền vững của ngân sách Nhà nước.

Tuy nhiên, số thu ngân sách từ 3 khu vực kinh tế đã không đạt so với dự toán đề ra. Ở đây có thể thấy, ngoài nguyên nhân dự toán thu của các khu vực này được giao ở mức phấn đấu cao để có thêm nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội thì một trong những nguyên nhân chính còn do hoạt động sản xuất kinh doanh của một số lĩnh vực, ngành hàng nhìn chung còn khó khăn, thiên tai. Quá trình tái cấu trúc kinh tế, xử lý nợ xấu còn chậm cũng đã tạo áp lực lên thu ngân sách.

Trong thời gian tới, Bộ Tài chính tiếp tục triển khai Nghị quyết 51/NQ-CP để cơ cấu lại nguồn thu ngân sách, đảm bảo tỷ lệ động viên hợp lý và phấn đấu thực hiện mục tiêu thu nội địa của giai đoạn 2016-2020 chiếm khoảng 84 - 85% tổng thu ngân sách Nhà nước.

- Trong bản Công khai Dự toán ngân sách Nhà nước năm 2019 Chính phủ trình Quốc hội, cơ quan chức năng chỉ liệt kê dự toán chi trả nợ lãi vay 124.800 tỷ đồng nhưng không có chi trả nợ gốc. Trong khi ấy, Kiểm toán Nhà nước đã bày tỏ lo lắng, khoản chi trả nợ gốc năm 2019 khoảng 197.000 tỷ đồng có thể gây áp lực lớn cho ngân sách. Ông nghĩ gì về lo lắng này? 

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng: Trong giai đoạn 2013 - 2015, nền kinh tế chịu tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Để có nguồn lực thực hiện các chính sách hỗ trợ, ổn định kinh tế vĩ mô, chống chịu với các tác động từ bên ngoài, ngân sách Nhà nước đã phải huy động một khối lượng lớn nguồn lực trong điều kiện thị trường vốn trong nước chưa phát triển, với kỳ hạn vay nợ chủ yếu là từ 3 - 5 năm.

Điều này dẫn đến nhu cầu trả nợ gốc tăng nhanh trong một vài năm gần đây, năm 2017 là 144.000 tỷ đồng, 2018 là 146.77000 tỷ đồng. Năm 2019 dự kiến là 181.970 tỷ đồng, nếu tính cả chi trả nợ gốc của ngân sách địa phương, tổng số chi trả nợ gốc năm 2019 là 197.000 tỷ đồng.

Tuy nhiên, cơ quan chức năng đã tích cực cơ cấu nợ công cả về kỳ hạn, lãi suất, cơ cấu vay trong nước và ngoài nước, cơ cấu nhà đầu tư theo hướng bền vững hơn. Cụ thể, kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ năm 2011 bình quân là 3,9 năm; năm 2017 là 12,74 năm; 9 tháng năm 2018 là 12,89 năm. Qua đó, kỳ hạn nợ bình quân danh mục trái phiếu năm 2011 là 1,84 năm; 2017 là 6,7 năm; tới cuối tháng 9/2018 là 6,69 năm.

Bên cạnh đó, theo thông lệ quốc tế, kể từ khi Luật Ngân sách Nhà nước 2015 có hiệu lực, thì khoản chi trả nợ gốc không đưa vào cân đối ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, việc thanh toán các khoản nợ đến hạn, kể cả nợ trong và ngoài nước, vẫn được thực hiện đầy đủ, kịp thời, không làm tăng tỷ lệ nợ Chính phủ, đảm bảo an toàn tài chính quốc gia.

Các năm tới, theo kế hoạch, thì quy mô chi trả nợ gốc tiếp tục tăng. Tuy nhiên, triển khai các Nghị quyết của Bộ Chính trị, của Quốc hội về cơ cấu lại ngân sách Nhà nước, kiểm soát bội chi ở mức 3,6% GDP năm 2019 và 3,4% GDP năm 2020; cơ cấu lại nợ công thì quy mô nợ công có xu hướng giảm, nền tài chính quốc gia bền vững hơn.

- Việc giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản thấp, nhất là trái phiếu Chính phủ theo đánh giá dẫn đến lãng phí ngân sách Nhà nước. Bộ Tài chính có đề xuất gì để cải thiện tình trạng này năm 2019, thưa ông? 

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng: Tính đến ngày 15/12/2018, lũy kế vốn giải ngân thuộc kế hoạch năm 2018 qua Kho bạc Nhà nước là 242.382 tỷ đồng, đạt 61,8% kế hoạch vốn năm 2018 Chính phủ giao. Dự kiến đến ngày 31/1/2019, lũy kế vốn giải ngân thuộc kế hoạch năm 2018 qua Kho bạc Nhà nước là 313.875 tỷ đồng, đạt 80% kế hoạch Chính phủ giao.

Qua theo dõi, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2018 đạt rất thấp so với kế hoạch vốn năm 2018 Chính phủ giao.

Đối với nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, năm 2018 vốn trái phiếu Chính phủ bố trí cho các bộ, ngành, địa phương phần lớn đều là cho các dự án khởi công mới. Do các dự án đều được phê duyệt cùng thời gian vào tháng 10/2017 nên hầu hết đều đang lập hồ sơ thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công sau đó mới tổ chức đấu thầu xây lắp.

Bởi vậy, việc giải ngân vốn trái phiếu chính phủ tập trung vào những tháng cuối năm 2018. Tỷ lệ giải ngân vốn trái phiếu chính phủ đến hết 15/12 mới đạt 31% thấp hơn nhiều so với cùng kỳ 2017 (61%) nên kéo tỷ lệ giải ngân bình quân chung xuống thấp.

Trong quá trình kiểm soát, thanh toán vốn đầu tư công năm 2018, Kho bạc Nhà nước nhận thấy có một số vướng mắc, tồn tại như vướng mắc trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng. Cụ thể, tiến độ đền bù, giải phóng mặt bằng thường bị kéo dài, vướng mắc khi triển khai thực hiện do giá cả đền bù của Nhà nước còn thấp so với giá cả thị trường nên không được người dân chấp thuận. Điều này làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án cũng như tiến độ giải ngân vốn đầu tư công.

Ngoài ra, các ban quản lý dự án chuyên ngành, khu vực đang tiếp tục rà soát, bàn giao, củng cố, hoàn thiện bộ máy theo Nghị định số 59/2015/NĐ-CP nên cũng ảnh hưởng không nhỏ tới tiến độ giải ngân vốn đầu tư công.

Các dự án chương trình mục tiêu, dự án đầu tư thuộc ngân sách địa phương, đặc biệt là nguồn vốn ngân sách huyện, xã phụ thuộc vào nguồn thu của địa phương (đặc biệt là các khoản thu từ đất, xổ sổ kiến thiết) nên thời gian phê duyệt dự án không đáp ứng được quy định.

Các vướng mắc về cơ chế chính sách quy định tại Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Đất đai cũng ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Vấn đề này đã được Chính phủ tổ chức Hội nghị toàn quốc tháo gỡ khó khăn vướng mắc về cơ chế chính sách liên quan đến lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Tuy nhiên, vẫn có một số nội dung vướng mắc đang trong quá trình sửa đổi, vì vậy cũng ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản.

Qua đó, Bộ Tài chính kiến nghị với Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung vào việc sửa đổi các vướng mắc về cơ chế chính sách quy định tại Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn,...

Đối với dự án ODA, Bộ Tài chính kiến nghị với Chính phủ chỉ đạo các chủ dự án, các bộ ngành địa phương đẩy nhanh tiến độ giải ngân, đồng thời đánh giá điều chỉnh kế hoạch vốn cho phù hợp với tiến độ thực hiện các dự án, thúc đẩy giải ngân nhanh các dự án ODA.

Bộ Tài chính cũng kiến nghị bộ, ngành, địa phương chỉ đạo các chủ đầu tư cần tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công, khẩn trương thanh toán khối lượng đã hoàn thành tại Kho bạc Nhà nước.

- Xin cảm ơn Bộ trưởng!