Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Tính bền vững của ngân sách nhà nước được củng cố

PV.

Trước một số ý kiến Đại biểu Quốc hội nêu trong phiên thảo luận tại Hội trường của Quốc hội chiều ngày 29/10 liên quan đến việc cơ cấu lại NSNN, tăng thu NSNN, chi trả nợ gốc..., Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã giải trình làm rõ thêm.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng làm rõ nhiều vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm. Nguồn: internet
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng làm rõ nhiều vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm. Nguồn: internet

Cơ cấu lại ngân sách nhà nước đạt kết quả tích cực

Làm rõ thêm một số ý kiến đại biểu Quốc hội nêu liên quan đến việc cơ cấu lại NSNN, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, những kết quả đạt được trong 3 năm 2016-2018 là khá tích cực; Một số chỉ tiêu đã đạt được trước thời hạn; Tính bền vững của NSNN được củng cố, góp phần duy trì ổn định vĩ mô.

Theo đó, thu NSNN 3 năm 2016-2018 đều vượt dự toán, đạt khoảng 54-55% kế hoạch (trong khi giá trị GDP đạt 52-53% kế hoạch của 5 năm); Tỷ lệ động viên vào NSNN đạt 24,9% GDP, trong đó từ thuế, phí đạt 21% GDP, đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết Quốc hội (tỷ lệ động viên vào NSNN không thấp hơn 23,5% GDP, trong đó từ thuế, phí khoảng 21% GDP).

Tỷ trọng thu nội địa tăng từ mức 75% năm 2015 lên gần 82% năm 2018, trong khi quy mô thu ngân sách bình quân 3 năm 2016-2018 bằng 1,5 lần bình quân giai đoạn 2011-2015. Trong đó, thu nội địa tăng 1,78 lần (nếu trừ đất, trừ phần bán vốn, cổ tức tại các doanh nghiệp nhà nước, tăng 1,62 lần). Tỷ trọng thu dầu thô và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) giảm tương ứng từ 23% xuống còn 18% trong cùng kỳ.

Đối với ý kiến một số đại biểu cho rằng, số tăng thu NSNN trong 3 năm qua chủ yếu là thu tiền sử dụng đất, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, điều này là đúng vì khoản thu này phụ thuộc nhiều vào thị trường và điều hành của chính quyền từng địa phương. Tuy nhiên, cũng như một số nguồn thu từ khai thác khoáng sản, bán tài sản Nhà nước, tỷ trọng khoản thu tiền sử dụng đất trong thu nội địa đang có xu hướng giảm, từ mức khoảng 11% năm 2016, 12% năm 2017, xuống còn 10,6% năm 2018 và dự kiến giảm còn khoảng 6,7% năm 2020.

Đối với một số địa phương, các nguồn thu này đã giảm mạnh thời gian qua. Bộ trưởng dẫn chứng, Đà Nẵng đã từng có lúc thu tiền sử dụng đất chiếm gần 50% tổng thu ngân sách địa phương (NSĐP), đến nay chỉ còn khoảng trên dưới 10%; Quảng Ninh năm 2011 thu từ khai thác khoáng sản (chủ yếu là than) chiếm gần 60% thu NSĐP, đến nay còn khoảng 45%, trong khi chi ngân sách của các địa phương này vẫn tăng nhờ thu thuế, phí từ hoạt động sản xuất – kinh doanh trong nước tăng nhanh.

Về chi ngân sách, theo Bộ trưởng, kết quả cơ cấu lại là tích cực. Theo đó, ngân sách đã tăng tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển. Dự toán năm 2015 là 17% tổng chi NSNN; Nghị quyết của Quốc hội yêu cầu giai đoạn 2016-2020 bố trí tăng lên bình quân 25-26%, dự toán NSNN 3 năm đã bố trí trên 26%, thực tế thực hiện còn lên đến 27-28% nhờ tăng thu NSĐP.

Cùng với đó, đã giảm tỷ trọng chi thường xuyên. Dự toán năm 2015 là 66,8%; Quốc hội yêu cầu giảm dần xuống mức dưới 64%, dự toán 3 năm 2016-2018 đã bố trí khoảng 64%, thực hiện xuống còn 63%, trong khi vẫn điều chỉnh tiền lương bình quân 7%/năm, cùng với triển khai chính sách giảm nghèo đa chiều, an sinh xã hội, đảm bảo một số nhiệm vụ an ninh - quốc phòng... 3 năm gần đây thu ngân sách đều có tích luỹ cho đầu tư phát triển.

Bên cạnh đó, bội chi NSNN được kiểm soát chặt chẽ, cả về số tuyệt đối và tỷ lệ so với GDP; Trong điều hành phấn đấu giảm so với dự toán và giảm dần qua các năm, nếu như bội chi bình quân giai đoạn 2011-2015 là 5,79% GDP thì năm 2018 dự kiến còn 3,67% GDP (dự toán là 3,7%).

Tốc độ tăng nợ công đã giảm mạnh

Theo Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng, các khoản nợ công thời gian qua đã được kiểm soát chặt chẽ, bố trí trả nợ đầy đủ. Nhờ vậy, tốc độ tăng nợ công đã giảm gần một nửa, từ mức tăng trên 18% trong giai đoạn 2011-2015 xuống còn 9,6% của 3 năm 2016-2018, góp phần đưa tỷ lệ nợ công giảm từ mức 63,7% GDP năm 2016 xuống còn 61,4% GDP năm 2018 và dự kiến xuống còn 61,3% năm 2019 và 60,8% năm 2020...

Trước băn khoăn của đại biểu Quốc hội về nghĩa vụ chi trả nợ gốc có xu hướng tăng nhanh, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, “điều này là đúng”. Trong giai đoạn 2012-2014, trước tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, để có nguồn lực ổn định vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, chúng ta đã phải huy động một lượng lớn trái phiếu chính phủ kỳ hạn 3-5 năm, dẫn đến nhu cầu trả nợ gốc chủ yếu vào thời điểm hiện nay. Bên cạnh đó, các khoản vay ODA trước đây hết thời gian ân hạn về trả nợ gốc, cùng với việc phải áp dụng điều khoản trả nợ nhanh đối với nguồn vốn vay IDA, ADF, nên áp lực trả nợ gốc gia tăng.

Tuy nhiên, so với những năm trước, áp lực huy động cho NSNN, bao gồm vay cho bù đắp bội chi và vay trả nợ gốc (vay đảo nợ) đã giảm mạnh. Năm 2018, tổng mức vay của NSNN là 363 nghìn tỷ đồng, trong khi năm 2014 là 441 nghìn tỷ đồng, năm 2015 là 447 nghìn tỷ đồng, năm 2016 là 389 nghìn tỷ đồng.

Việc kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu nợ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp tục cải thiện mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam. Năm 2018, Fitch và Moody’s đã lần lượt nâng bậc hệ số tín nhiệm của Việt Nam lên mức BB/Ba3. Tháng 7/2018, Quỹ Tiền tệ quốc tế cũng nhận định tình hình tài chính công của Việt Nam trong trung hạn ở mức ổn định, rủi ro khủng hoảng nợ ở mức thấp.

Bên cạnh đó, nợ nước ngoài của Chính phủ đã được cơ cấu lại theo hướng giảm dần tỷ trọng từ 60% năm 2011 xuống còn khoảng 40% cuối năm 2018. Theo đó, tỷ lệ nợ nước ngoài của Chính phủ giảm từ mức 24% GDP vào cuối năm 2011 xuống còn 21% GDP giai đoạn 2016-2018.

Về nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh, đã hạn chế cấp bảo lãnh cho các dự án mới. Theo đó, dư nợ được Chính phủ bảo lãnh giảm từ mức 10,9% GDP năm 2015 xuống còn 8,7% GDP năm 2018; Trong đó, bảo lãnh nước ngoài giảm từ mức 5,9% GDP vào cuối năm 2015 xuống còn khoảng 5% GDP vào cuối năm 2018.

Riêng đối với nợ nước ngoài tự vay tự trả của doanh nghiệp (hiện chiếm khoảng 50% tổng nợ nước ngoài của quốc gia), Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, nợ có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây và là nguyên nhân chính dẫn đến gia tăng nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP. Riêng năm 2017, nợ nước ngoài tự vay tự trả của doanh nghiệp tăng tới 42%, trong đó có khoản vay của Công ty Vietnam Beverage trị giá 4,8 tỷ USD để mua cổ phần Sabeco...