Đổi mới tổ chức hoạt động các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Tài chính trong điều kiện hiện nay

Tạp chí Tài chính kỳ 2-tháng 9/2018

Thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập và Nghị định số 16/2016/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, Bộ Tài chính đã vào cuộc triển khai.

Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đổi mới tổ chức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Tài chính.
Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đổi mới tổ chức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Tài chính.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được bước đầu cũng còn một số tồn tại, vướng mắc phát sinh. Theo đó, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đổi mới tổ chức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Tài chính.

Thực trạng hoạt động các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Tài chính

Hiện nay, Bộ Tài chính có 28 đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) hoạt động theo 5 nhóm lĩnh vực, gồm:

- Giáo dục và đào tạo (4 đơn vị): Học viện Tài chính; Đại học Tài chính – Marketing; Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh; Đại học Tài chính - Kế toán; Khoa học – công nghệ (2 đơn vị): Viện Chiến lược và Chính sách tài chính; Viện Nghiên cứu Hải quan trực thuộc Tổng cục Hải quan

- Thông tin, tuyên truyền (13 đơn vị): Thời báo Tài chính Việt Nam; Tạp chí Tài chính; Nhà Xuất bản tài chính; Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia (Kho bạc Nhà nước); Tạp chí Thuế (Tổng cục Thuế); Báo Hải quan (Tổng cục Hải quan); Tạp chí Chứng khoán (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước); Trung tâm Dữ liệu quốc gia và Dịch vụ về giá (Cục Quản lý giá); Trung tâm Khai thác dữ liệu quốc gia về tài sản nhà nước và dịch vụ về tài sản (Cục Quản lý công sản); Trung tâm Dữ liệu và Triển khai công nghệ thông tin tài chính tại TP. Hồ Chí Minh (Cục Tin học và Thống kê tài chính); Trung tâm Chuyển giao công nghệ và Hỗ trợ kỹ thuật (Cục Tin học và Thống kê tài chính); Trung tâm Dịch vụ công nghệ thông tin trực (Cục Công nghệ thông tin trực thuộc Tổng cục Thuế); Trung tâm Quản lý vận hành hệ thống công nghệ thông tin hải quan (Cục Công nghệ thông tin thuộc Tổng cục Hải quan). 

- Đào tạo, bồi dưỡng (7 đơn vị): Trường Bồi dưỡng cán bộ tài chính; Trường Nghiệp vụ kho bạc (Kho bạc Nhà nước); Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ dự trữ nhà nước (Tổng cục Dự trữ Nhà nước); Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Đào tạo chứng khoán (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước); Trường Nghiệp vụ thuế (Tổng cục Thuế); Trường Hải quan Việt Nam (Tổng cục Hải quan); Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm (Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm). 

- Sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác (2 đơn vị): Trung tâm Dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật về quản lý nợ và giao nhận hàng vay nợ, viện trợ (Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại); Nhà nghỉ Bộ Tài chính.

Tính đến 31/12/2017, đã có 28 đơn vị SNCL thuộc Bộ Tài chính được tổ chức, sắp xếp lại phù hợp với yêu cầu và chức năng nhiệm vụ. Theo đó, có 1 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; 6 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên; 21 đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên; Theo Đề án sắp xếp lại cơ quan báo chí Bộ Tài chính đã có 4 tạp chí giải thể. 

Tính đến 31/12/2017, đã có 28 đơn vị đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính được tổ chức, sắp xếp lại phù hợp với yêu cầu và chức năng nhiệm vụ. Theo đó, có 1 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; 6 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên; 21 đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên; Theo Đề án sắp xếp lại cơ quan báo chí Bộ Tài chính đã có 4 tạp chí giải thể.

Trong những năm qua, Bộ Tài chính đã tổ chức triển khai các cơ chế, chính sách liên quan đến từng loại hình đơn vị sự nghiệp, đặc biệt là chủ trương thực hiện tự chủ, xã hội hóa đơn vị SNCL. Việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị SNCL thuộc phạm vi quản lý đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị chủ động trong quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn kinh  phí được giao.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình triển khai cũng gặp phải một số tồn tại, vướng mắc phát sinh như sau: Mạng lưới đơn vị sự nghiệp ở một số chuyên ngành, lĩnh vực còn bất cập, phân bố chưa hợp lý. Việc thực hiện sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị SNCL tại các lĩnh vực chưa đồng đều, chủ yếu là thuộc lĩnh vực thông tin tuyên truyền. Bên cạnh đó, một số đơn vị chưa phát huy được tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức, cũng như về tài chính.

Trong một số lĩnh vực, số lượng đơn vị tự chủ toàn diện còn ít, mức độ tự chủ thấp, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo; Một số đơn vị có kết quả hoạt động chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, dẫn đến kém hiệu quả; Một số lĩnh vực còn thiếu các chuyên gia đầu ngành, chất lượng viên chức ở một số vị trí chưa đáp ứng được yêu cầu vị trí việc làm; Cách thức quản lý còn mang nặng hành chính, chưa chuyển sang hình thức dịch vụ phục vụ công tác quản lý hành chính; Cơ sở vật chất, trang thiết bị tại một số đơn vị còn khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu; Các đơn vị chưa chủ động mở rộng hoạt động dịch vụ để khai thác nguồn thu, vì vậy, chưa theo kịp yêu cầu và sự cạnh tranh của thị trường. Một số lĩnh vực hoạt động có tính chất dịch vụ, các đơn vị chưa thực hiện đáp ứng yêu cầu, phải thuê ngoài dẫn đến bộ máy đơn vị SNCL cồng kềnh, tốn kém ngân sách đầu tư nhưng không mang lại hiệu quả phục vụ nhiệm vụ quản lý của Bộ Tài chính...

Nguyên nhân của những tồn tại trên được xác định là do cơ chế quản lý đơn vị sự nghiệp hiện nay chưa đồng bộ giữa tự chủ về tổ chức bộ máy và cơ chế tài chính; Thiếu quy định hướng dẫn thực hiện cụ thể đối với quản lý và tổ chức hoạt động của các đơn vị SNCL thuộc nhóm ngành, lĩnh vực cụ thể. Trong một số lĩnh vực, chưa tách được chức năng quản lý nhà nước với chức năng thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ cho cơ quan chủ quản của đơn vị SNCL; Công tác tổ chức bộ máy còn cồng kềnh...

Việc đầu tư vào một số lĩnh vực, đặc biệt là giáo dục - đào tạo có khả năng thu hồi vốn chậm nên chưa có sức thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước; Lãnh đạo các đơn vị sự nghiệp, đội ngũ viên chức còn thiếu chuyên nghiệp, chưa quyết liệt đổi mới, còn mang tư tưởng phụ thuộc vào NSNN; Nhận thức của lãnh đạo các đơn vị đối với việc đổi mới cơ chế hoạt động và thực hiện xã hội hóa còn chưa thống nhất, chưa đầy đủ... Cụ thể đối với từng lĩnh vực như sau:

- Đối với các đơn vị sự nghiệp giáo dục và đào tạo cao đẳng, đại học: Nguồn thu chủ yếu từ học phí, nhưng ngày càng bị thu hẹp do sự tăng mạnh cả về số lượng và chất lượng các cơ sở giáo dục đào tạo hệ cao đẳng, đại học có đào tạo chuyên ngành kinh tế - tài chính trong cả nước. Mặt khác, nhu cầu nhân lực của xã hội về chuyên ngành kinh tế - tài chính không cao như những năm trước nên lượng sinh viên chọn trường ngành Tài chính ngày càng giảm.

- Đối với các đơn vị sự nghiệp lĩnh vực văn hóa - thông tin: Các báo, tạp chí có, số thu sự nghiệp hàng năm chủ yếu từ nguồn thu phát hành báo, quảng cáo và xuất bản các ấn phẩm, sách. Việc khai thác nguồn thu này ngày càng khó khăn. Các đơn vị sự nghiệp công nghệ thông tin có nguồn thu chủ yếu đến từ hoạt động quản trị, vận hành hệ thống, đào tạo và chuyển giao công nghệ đối với các phần mềm ứng dụng trong ngành Tài chính. Tuy nhiên, do chế độ kế toán không có nhiều biến động; hơn nữa các đơn vị còn chịu áp lực cạnh tranh trực tiếp trên thị trường, nên nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp ngày càng giảm, ảnh hưởng tới đời sống viên chức, người lao động.

- Đối với đơn vị sự nghiệp lĩnh vực đào tạo bồi dưỡng: Phạm vi cung cấp dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng bị bó hẹp và chủ yếu mang tính cập nhật kiến thức liên quan đến lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ, học viên tham gia các khóa đào tạo chủ yếu là cán bộ, công chức, viên chức trong ngành Tài chính nên khó khăn trong khai thác nguồn thu hoạt động dịch vụ.

Một số định hướng, giải pháp đề xuất

Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động của các đơn vị SNCL trong Bộ Tài chính và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về định hướng đổi mới hoạt động của các đơn vị SNCL, trong thời gian tới, Bộ Tài chính cần chú trọng đến các giải pháp sau nhằm tinh gọn tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị SNCL của Bộ Tài chính.

Thứ nhất, sắp xếp tổ chức bộ máy các đơn vị SNCL của Bộ Tài chính.

Theo đó, tiếp tục duy trì hoạt động của các đơn vị SNCL đang hoạt động hiệu quả; Nghiên cứu thí điểm tách đơn vị SNCL có khả năng xã hội hóa cao, phục vụ nhu cầu xã hội, đã tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư ra khỏi cơ quan chủ quản; chỉ giữ lại những đơn vị SNCL phục vụ trực tiếp hoạt động quản lý nhà nước của Bộ Tài chính, đặc biệt là đơn vị nghiên cứu chính sách, chiến lược, thông tin tuyên truyền trực tiếp cho ngành Tài chính; Giải thể, sáp nhập, chuyển đổi loại hình đối với những đơn vị SNCL quy mô nhỏ, hoạt động không hiệu quả, không phục vụ quản lý nhà nước hoặc hoạt động trong lĩnh vực đã xã hội hóa cao. Đồng thời, rà soát, tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo hướng: Nhiệm vụ chức năng quản lý nhà nước thì chuyển giao cho đơn vị quản lý nhà nước thuộc Bộ thực hiện; nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công chuyển giao cho các Hiệp hội nghề nghiệp cùng lĩnh vực thực hiện. Đối với các đơn vị phục vụ theo nhu cầu xã hội, nghiên cứu cổ phần hóa hoặc giải thể theo quy định của pháp luật; Đẩy mạnh thực hiện việc sắp xếp theo Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí đến năm 2025 đã được Bộ Chính trị (khóa XI) thông qua việc sắp xếp hệ thống báo chí gắn với đổi mới mô hình, nâng cao hiệu quản lãnh đạo, quản lý báo chí.

Cụ thể đối với từng nhóm lĩnh vực hoạt động như sau:

- Đối với đơn vị sự nghiệp thuộc lĩnh vực giáo dục đào tạo: Đẩy mạnh tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học, thực hiện thí điểm tách trường đại học ra khỏi Bộ Tài chính chủ quản hướng đến thực hiện theo mô hình doanh nghiệp.

- Đối với đơn vị sự nghiệp thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học: Sắp xếp tổ chức lại theo hướng Bộ Tài chính có 2 đơn vị nghiên cứu khoa học, đồng thời tách chức năng quản lý nhà nước ra khỏi đơn vị nghiên cứu khoa học để thực hiện cơ chế nhà nước đặt hàng.

- Đối với đơn vị sự nghiệp thuộc lĩnh vực văn hóa thông tin: Tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp lĩnh vực thông tin tuyên truyền theo hướng cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ và giải thể các đơn vị không có hoạt động dịch vụ, đặc biệt đối với những đơn vị sự nghiệp thuộc Cục trực thuộc Bộ và Tổng cục. Đối với các đơn vị báo chí, nhà xuất bản, cần tăng cường thực hiện tự chủ tài chính hướng đến các đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên.

- Đối với đơn vị sự nghiệp thuộc lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng: Tổ chức, sắp xếp lại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng theo hướng thực hiện cơ chế đặt hàng, nâng cao chất lượng bồi dưỡng và khả năng cạnh tranh của đơn vị; Tập trung nguồn lực thống nhất thực hiện chương trình, đồng thời, giảm chồng chéo trong thực hiện đào tạo, bồi dưỡng.

- Đối với đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác: Tổ chức, sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác theo hướng giải thể đơn vị không có hoạt động dịch vụ sự nghiệp, cổ phần hóa hoặc chuyển về địa phương quản lý đối với đơn vị không phục vụ cho chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tài chính. 

Thứ hai, đổi mới quản lý biên chế, nhân sự.

Việc xác định và giao biên chế sẽ thực hiện theo hướng quản lý, giám sát chặt chẽ biên chế của các đơn vị SNCL do NSNN bảo đảm toàn bộ hoặc một phần chi thường xuyên. Theo đó, đối với các đơn vị SNCL có vai trò phục vụ công tác quản lý nhà nước, tự bảo đảm một phần chi thường xuyên hoặc NSNN bảo đảm chi thường xuyên, Nhà nước giao biên chế, xác định số lượng, nhu cầu, phân loại viên chức theo vị trí việc làm và tiến tới giao định mức chi phí cho từng đơn vị phục vụ quản lý.

Đối với các đơn vị sự nghiệp công cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, tự bảo đảm chi thường xuyên hoặc tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư: Bộ Tài chính không giao biên chế, thủ trưởng đơn vị tự quyết định chỉ tiêu biên chế theo đề án vị trí việc làm của đơn vị theo cơ chế tính đủ, tính đúng giá dịch vụ sự nghiệp hoặc giao định mức kinh phí cho từng bộ phận thực hiện nhiệm vụ phục vụ công tác quản lý của đơn vị.

Thứ ba, đổi mới về cơ chế tài chính.

Đẩy mạnh thực hiện đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị SNCL thông qua việc: Xác định dịch vụ công sử dụng NSNN; Cơ chế tính giá dịch vụ sự nghiệp công; Cơ chế thực hiện tự chủ tài chính đối với đơn vị SNCL. Cụ thể:

- Xác định dịch vụ công sử dụng NSNN: Xây dựng danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN theo nguyên tắc: Đối với các dịch vụ thiết yếu thì Nhà nước bảo đảm kinh phí; đối với các dịch vụ cơ bản thì Nhà nước hỗ trợ kinh phí để thực hiện; đối với các dịch vụ mang tính đặc thù của một số ngành, lĩnh vực thì thực hiện theo cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu để tạo điều kiện cho các cơ sở ngoài công lập cùng tham gia; đối với các dịch vụ khác thì đẩy mạnh thực hiện theo cơ chế xã hội hóa, huy động sự tham gia cung ứng của các thành phần kinh tế.

- Cơ chế tính giá dịch vụ sự nghiệp công: Đối với dịch vụ sự nghiệp công có sử dụng NSNN, đơn vị cần hạch toán đầy đủ các khoản chi phí cung cấp từng dịch vụ sự nghiệp công của đơn vị để xác định định mức kinh tế - kỹ thuật của mỗi dịch vụ, làm cơ sở xác định giá dịch vụ sự nghiệp công và lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN.

Việc đổi mới công tác quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập cả nước nói chung và Bộ Tài chính nói riêng nhằm cơ cấu lại tổ chức bộ máy các đơn vị tinh gọn, hợp lý; tinh giản biên chế gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức; tăng nguồn thu từ hoạt động đơn vị sự nghiệp; giảm nguồn NSNN cho các đơn vị sự nghiệp, nâng cao khả năng tự chủ của đơn vị, tách chức năng quản lý nhà nước ra khỏi nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp công lập.

Đối với dịch vụ sự nghiệp không sử dụng NSNN, đơn vị chủ động tính toán xác định giá dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường, được quyết định các khoản thu, mức thu bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý, có tích lũy theo quy định của pháp luật đối với từng lĩnh vực (trừ giá dịch vụ đào tạo tại cơ sở giáo dục - đào tạo thì thực hiện theo quy định của pháp luật về giá).

- Cơ chế thực hiện tự chủ tài chính đối với đơn vị SNCL: Căn cứ quy định về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị SNCL trong từng ngành, lĩnh vực để chỉ đạo các đơn vị SNCL xây dựng phương án tự chủ tài chính theo quy định để xem xét, phân loại mức độ tự chủ tài chính sau khi có ý kiến của cơ quan tài chính cung cấp và các bộ quản lý ngành, lĩnh vực sự nghiệp. Trên cơ sở mức độ tự chủ về tài chính, tăng cường phân cấp và giao quyền chủ động cho các đơn vị SNCL theo hướng phân định rõ việc quản lý nhà nước với quản trị đơn vị SNCL và minh bạch trong việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.

Việc đổi mới công tác quản lý các đơn vị SNCL cả nước nói chung và Bộ Tài chính nói riêng nhằm cơ cấu lại tổ chức bộ máy các đơn vị tinh gọn, hợp lý; Tinh giản biên chế gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức; Tăng nguồn thu từ hoạt động đơn vị sự nghiệp; Giảm nguồn NSNN cho các đơn vị sự nghiệp, nâng cao khả năng tự chủ của đơn vị, tách chức năng quản lý nhà nước ra khỏi nhiệm vụ của đơn vị SNCL hướng đến đổi mới công tác quản lý theo mô hình quản trị doanh nghiệp là hết sức cần thiết, góp phần thực hiện thắng lợi vào mục tiêu kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.

Tài liệu tham khảo:

  1. Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị SNCL;
  2. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2017 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp;
  3. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức;
  4. Chính phủ, Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/ 2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập;
  5. Chính phủ, Nghị định số 16/2016/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị SNCL;
  6. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 – 2020 với mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020;
  7. Chính phủ, Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị SNCL;
  8. PGS.,TS. Phạm Văn Đăng, Đổi mới tài chính đơn vị sự nghiệp công và dịch vụ công, Đề tài khoa học cấp Bộ, 2012;
  9. GS.,TS. Ngô Thế Chi, Nâng cao vai trò quản trị các Trường Đại học công lập kinh tế trong điều kiện tự chủ tài chính, Đề tài khoa học cấp Bộ, 2013.