Giải pháp cơ bản triển khai cổ phần hoá, thoái vốn DNNN


Tính đến hết năm 2018, có 35/526 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cơ cấu lại. Việc chậm phê duyệt phương án cơ cấu lại đã và đang ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện và khả năng hoàn thành mục tiêu cơ cấu lại DNNN đề ra theo Quyết định số 707/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ.

Để làm rõ những thực trạng, tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và những giải pháp đẩy nhanh tiến độ thoái vốn, cổ phần hoá, Tạp chí điện tử Tài chính đã có cuộc trao đổi với ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) về vấn đề này.

PV: Thưa ông Đặng Quyết Tiến, có thể thấy tiến độ cổ phần hoá DNNN hiện nay dường như đang dậm chân tại chỗ, vậy đây là nguyên nhân chính? và ông cho biết về thực trạng quá trình cổ phần hoá DNNN hiện nay?

Ông Đặng Quyết Tiến.
Ông Đặng Quyết Tiến.

Ông Đặng Quyết Tiến: Có thể khẳng định, tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn hiện nay diễn ra khá chậm, trong đó, việc phê duyệt phương án cơ cấu chưa đạt được theo kế hoạch đã đề ra. Việc chậm trễ này đã và đang ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện và khả năng hoàn thành mục tiêu cơ cấu lại DNNN giai đoạn 2016-2020 theo Quyết định số 707/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ.

Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 991/TTg-ĐMDN ngày 10/7/2017, giai đoạn 2017-2020 sẽ triển khai cổ phần hóa 127 doanh nghiệp (DN), cụ thể: Năm 2017 cổ phần hóa 44 DN; Năm 2018 cổ phần hóa 64 DN; Năm 2019 cổ phần hóa 18 DN; Năm 2020 cổ phần hóa 01 DN.

Riêng trong năm 2018, mới chỉ có 23 DN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng giá trị DN là 31.706 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 16.739 tỷ đồng. Tổng vốn điều lệ theo phương án được cấp có thẩm quyền phê duyệt là 20.278 tỷ đồng, trong đó Nhà nước nắm giữ 12.118 tỷ đồng; bán cho nhà đầu tư chiến lược 2.540 tỷ đồng; đấu giá công khai 5.429 tỷ đồng, số còn lại bán cho người lao động là 179 tỷ đồng và tổ chức công đoàn 7 tỷ đồng.

Như vậy, lũy kế giai đoạn 2016-2018, đã có 159 DN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng giá trị DN là 442.275 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 206.024 tỷ đồng.

Năm 2018, đã có 28 DN thực hiện bán cổ phần lần đầu với giá trị cổ phần bán ra là 13.950 tỷ đồng, thu về 21.827 tỷ đồng. Tuy nhiên, tiến độ triển khai cổ phần hóa trong năm 2018 được đánh giá còn chậm, chưa đạt được theo kế hoạch. Nhiều đơn vị có số lượng DN phải thực hiện cổ phần hóa lớn nhưng chưa thực hiện theo đúng kế hoạch và chưa báo cáo cấp có thẩm quyền điều chỉnh tiến độ thực hiện.

Có thể nói việc chậm quyết toán bàn giao sang công ty cổ phần đã làm ảnh hưởng đến công tác bàn giao của doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, ảnh hưởng đến việc thu nộp các khoản về Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển DN. Việc bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước về SCIC còn chậm, chưa đảm bảo kế hoạch theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Nhiều DN chậm đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán làm ảnh hưởng đến tính công khai, minh bạch của thị trường, chậm đổi mới công tác quản trị DN sau cổ phần theo thông lệ và chuẩn mực của các DN trên thị trường chứng khoán, cũng như hạn chế công tác giám sát của toàn xã hội đối với hoạt động của các DN này.

Tình hình tiến độ cổ phần hoá được đánh giá còn chậm vậy tình hình thoái vốn thì sao, có đạt kế hoạch đề ra không thưa ông?

Theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg ngày 17/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ, giai đoạn 2017-2020 thực hiện thoái khoảng 60.000 tỷ đồng vốn nhà nước tại các DN, trong đó: Năm 2017, thực hiện thoái vốn tại 135 DN; Năm 2018 thực hiện thoái vốn tại 181 DN; Năm 2019, thực hiện thoái vốn tại 62 DN; Năm 2020 thực hiện thoái vốn tại 28 DN.

Năm 2018, các DN đã thoái được 8.640 tỷ đồng, thu về 19.618 tỷ đồng, trong đó: Thoái vốn nhà nước tại 54 DN theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg  ngày 17/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ với giá trị 1.707 tỷ đồng, thu về 3.327 tỷ đồng; Thoái vốn nhà nước tại 03 DN không thuộc danh sách tại Quyết định số 1232/QĐ-TTg với giá trị 334 tỷ đồng, thu về 404 tỷ đồng; Các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước thực hiện thoái 6.598 tỷ đồng, thu về 15.887 tỷ đồng.

Như vậy, lũy kế giai đoạn 2016-2018, cả nước đã thoái được 22.064 tỷ đồng, thu về 165.956 tỷ đồng, trong đó: Thoái vốn nhà nước tại 78 DN thuộc Quyết định số 1232/QĐ-TTg ngày 17/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ với giá trị 3.790 tỷ đồng, thu về 7.107 tỷ đồng; Thoái vốn nhà nước tại các DN ngoài Quyết định số 1232/QĐ-TTg: thoái 3.785 tỷ đồng, thu về 110.392 tỷ đồng (bao gồm khoản thoái 3.436 tỷ đồng, thu về 109.965 tỷ đồng tại Sabeco); Các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước thực hiện thoái 14.488 tỷ đồng, thu về 48.456 tỷ đồng.

Việc triển khai thoái vốn nhà nước còn chậm, chưa đạt kế hoạch đề ra. Một số bộ, ngành, địa phương có nhiều DN phải thực hiện thoái vốn vẫn đang triển khai thực hiện nhưng kết quả đạt thấp hoặc chưa có kết quả, tuy nhiên các đơn vị này vẫn chưa báo cáo cấp có thẩm quyền điều chỉnh tiến độ thực hiện.

Vậy đâu là nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong quá trình cổ phần hoá, thoái vốn, thưa ông?

Thông qua công tác kiểm tra, giám sát và theo dõi tiến độ cổ phần hoá, thoái vốn DNNN, có thể nhận thấy nguyên nhân của việc chậm trễ trong cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN bởi một số nguyên nhân chính sau:

Thứ nhất, một số bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước còn chưa thực sự nghiêm túc triển khai kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và chấp hành chế độ báo cáo. Vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu DN, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong việc đổi mới hoạt động của DN, công khai minh bạch, đúng quy định pháp luật, đảm bảo nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước.

Thứ hai, quá trình cổ phần hóa DNNN cần có nhiều thời gian để xử lý vướng mắc về tài chính, đất đai, lao động trong giai đoạn trước cổ phần hóa làm kéo dài thời gian thực hiện cổ phần hóa. Đặc biệt là vấn đề xác lập hồ sơ pháp lý đất đai do Ủy ban nhân dân địa phương thực hiện chậm, kéo dài thời gian hơn so với quy định dẫn đến các DN phải điều chỉnh tiến độ cổ phần hóa.

Thứ ba, tỷ lệ vốn nhà nước trong Phương án cổ phần hóa DNNN còn cao dẫn đến giảm sức hút đối với các nhà đầu tư mua cổ phần, ảnh hưởng đến thành công của việc cổ phần hóa.

Ngoài ra, một nguyên nhân cơ bản nữa, đó là tình trạng chậm nhất trong cổ phần hóa vẫn là vấn đề đất đai bởi những vấn đề về hồ sơ, quyền sử dụng đất ảnh hưởng đến phương án cổ phần hóa. Bên cạnh đó, việc thoái vốn chậm tập trung vào những doanh nghiệp, địa phương có diện tích, giá trị đất đai lớn như Bộ Xây dựng, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bắc Giang… Trong quá trình cổ phần hóa, có nhiều mảnh đất chưa đầy đủ hồ sơ, chưa xác lập quyền sử dụng đất, do đó, chưa có cơ sở để thiết lập đầy đủ phương án cổ phần hóa.

Với những nguyên nhân cơ bản kể trên, vậy câu hỏi đặt ra là phải chăng công tác hoàn thiện cơ chế chính sách về cổ phần hoá, thoái vốn DNNN cần phải được tăng cường hơn nữa, thưa ông?

Theo tôi, có thể khẳng định, cơ chế chính sách được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung và sau khi ban hành ngày càng chặt chẽ, công khai, minh bạch, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh và đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, vốn của DNNN. Cụ thể, ngay sau khi Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII, Nghị quyết số 60/NQ-QH14 của Quốc hội, Nghị định số 126/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 của Chính phủ về chuyển DNNN và công ty TNHH MTV do DNNN nắm giữ 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần, Bộ Tài chính đã ban hành theo thẩm quyền hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương, DN việc xác định giá trị DN để cổ phần hóa, việc quản lý, sử dụng tiền thu từ cổ phần hóa DN, việc cơ cấu lại các DN không đủ điều kiện cổ phần hóa...

Riêng trong năm 2018, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1515/QĐ-TTg ngày 9/11/2018 ban hành Quy chế về trình tự, thủ tục, hồ sơ chuyển giao quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các DN về Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN.

Bên cạnh đó, để tạo điều kiện để DN niêm yết, đăng ký giao dịch và lên UPCoM, vừa qua Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 13/2019/TT-BTC ngày 15/3/2019 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 180/2015/TT-BTC ngày 13/11/2015 hướng dẫn về đăng ký giao dịch chứng khoán trên hệ thống giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết (UPCoM). Nội dung Thông tư số 13 quy định rất rõ, DNNN mà IPO cũng có thể coi là công ty đại chúng rồi, còn điều kiện để thành công ty đại chúng là phải đăng ký giao dịch và vào thị trường UPCoM.

Như vậy, có thể thấy cơ chế, chính sách về cổ phần hóa, thoái vốn DNNN đã được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhằm tạo cơ sở pháp lý để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn và hạn chế thất thoát vốn, tài sản nhà nước trong quá trình cổ phần hóa, thoái vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bán cổ phần và thu hút được các nhà đầu tư có tiềm năng, đồng thời quan tâm, bảo đảm quyền lợi chính đáng của người lao động.

Thưa ông, vậy theo ông, muốn đẩy nhanh quá trình và tiến độ thoái vốn, cổ phần hoá DNNN, cần có những giải pháp cơ bản gì?

Để đẩy nhanh quá trình và tiến độ thoái vốn, cổ phần hoá DNNN, theo tôi cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, nghiêm túc, khẩn trương, quyết liệt triển khai các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, chỉ đạo tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ và Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 05/1/2019 của Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước cần tập trung vào 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN theo Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII, Nghị quyết số 60/NQ-QH14 của Quốc hội, tạo sự nhất trí cao trong toàn hệ thống chính trị để nâng cao hơn nữa nhận thức và có hành động quyết liệt, cụ thể trong thực hiện.

Thứ hai, các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, DNNN hoàn thành việc phê duyệt hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cơ cấu lại các DN thuộc lĩnh vực quản lý.

Thứ ba, Thủ trưởng, người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN chịu trách nhiệm đôn đốc, triển khai thực hiện đúng tiêu chí phân loại DNNN, DN có vốn nhà nước và Danh mục DNNN thực hiện sắp xếp giai đoạn 2016 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 58/2016/QĐ-TTg; thực hiện việc cổ phần hóa, thoái vốn theo đúng kế hoạch tại văn bản số 991/TTg-ĐMDN ngày 10/7/2017 và Quyết định số 1232/QĐ-TTg ngày 17/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ.

Thứ tư, các DNNN thuộc diện cổ phần hóa cần khẩn trương rà soát toàn bộ quỹ đất đang quản lý, sử dụng để lập phương án sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có ý kiến về phương án và giá đất để cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi tổ chức xác định giá trị DN cổ phần hóa theo đúng quy định tại Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 và Nghị định số 126/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 của Chính phủ.

Xin cảm ơn ông!