Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ giai đoạn 2011-2020 và một số vấn đề đặt ra

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 12/2019

Đánh giá chung trong giai đoạn 2011-2020, trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, kinh tế Việt Nam đã thành công trong việc vượt qua các bất ổn và phục hồi tốc độ tăng trưởng GDP. Đóng góp vào kết quả này phải kể đến vai trò của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, trong đó, sự phối hợp giữa 2 chính sách ngày càng được chú trọng và đạt được hiệu quả hơn.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Bối cảnh thế giới và trong nước giai đoạn 2011 - 2020

Những năm đầu của giai đoạn 2011 - 2020, kinh tế thế giới xuất hiện thêm nhiều bất ổn mới sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2009 và khủng hoảng nợ công ở châu Âu. Tăng trưởng kinh tế thế giới và ở nhiều nước đã chậm hơn so với kỳ vọng, chứa đựng nhiều rủi ro. Toàn cầu hóa vẫn là xu hướng chủ đạo nhưng sự thay đổi của khoa học và công nghệ và tương quan lực lượng giữa các cường quốc đã tác động mạnh mẽ đến xu thế hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng tăng cường các liên kết kinh tế song phương.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp, kinh tế trong nước giai đoạn 2011-2020 cũng đã bị ảnh hưởng đáng kể. Trong nửa đầu giai đoạn 2011 - 2020, kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh tế thế giới, do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở châu Âu chưa được giải quyết, tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư. Tăng trưởng GDP đã giảm xuống dưới 6% vào các năm 2012 - 2014, riêng năm 2011 lạm phát tăng cao đến 18,13%. Trong bối cảnh đó, ổn định kinh tế vĩ mô được ưu tiên với các giải pháp về tài khóa và tiền tệ đã được triển khai đồng bộ nhằm kiềm chế lạm phát. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, đặc biệt là từ năm 2012 đến nay. Sau khi đã đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, các giải pháp nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh được ban hành và thực thi đã hỗ trợ cho sự phục hồi của tăng trưởng. Tốc độ tăng GDP đã quay trở lại mức trên 6% kể từ năm 2015 và đến năm 2018 đạt 7,08% - mức cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Tăng trưởng kinh tế vẫn tiếp tục duy trì trong 9 tháng đầu năm 2019 với mức 6,98% và được dự báo khả quan trong năm 2020.

Hiệu quả phối hợp chính sách tài khóa,  chính sách tiền tệ giai đoạn 2011-2020

Đánh giá chung trong giai đoạn 2011-2020, kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định khi vượt qua các bất ổn và phục hồi tốc độ tăng trưởng GDP. Đóng góp vào kết quả này phải kể đến vai trò của chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT).

Giai đoạn 2011-2015

Trong 5 năm (2011-2015), mục tiêu của điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô có sự thay đổi trong từng thời kỳ: Kiềm chế lạm phát năm 2011-2012; Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ sản xuất – kinh doanh năm 2013-2015. Theo đó, sự phối hợp CSTK - CSTT trong từng thời kỳ cũng có những điều chỉnh để phù hợp với các mục tiêu mới. Cụ thể:

(i) Kiềm chế lạm phát năm 2011-2012

Trong bối cảnh tăng trưởng phục hồi nhưng lại đi kèm với lạm phát ở mức cao, đồng tiền mất giá, tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội là mục tiêu, nhiệm vụ cấp bách được xác định tại Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP của Chính phủ ngày 24/2/2011 (Về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội).

Để kiềm chế lạm phát, CSTK đã được điều chỉnh theo hướng cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước (NSNN). Các giải pháp cụ thể đó là: Tăng thu NSNN từ 7-8% so với dự toán ngân sách năm 2011; Tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên; Giảm bội chi NSNN năm 2011 xuống dưới 5% GDP; Không ứng trước vốn NSNN, vốn trái phiếu chính phủ (TPCP) năm 2012 cho các dự án, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách; Không kéo dài thời gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ NSNN, TPCP kế hoạch năm 2011...

CSTT được điều hành chặt chẽ, thận trọng với các biện pháp cụ thể: Tăng lãi suất cơ bản từ 8% lên 9% trong tháng 5/2010 và tiếp tục duy trì đến quý I/2014; giảm tăng trưởng cung tiền năm 2011 xuống còn khoảng 15 - 16%, mức tăng tín dụng xuống dưới 20%; Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng USD; Điều chỉnh tỷ giá và thu hẹp biên độ dao động từ 3% xuống 1% từ ngày 11/2/2011… Theo đó, tăng trưởng tín dụng đã giảm còn 14,7% năm 2011, tăng trưởng M2 cũng giảm còn 12,07%.

(ii) Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ sản xuất kinh doanh các năm 2012-2015

Ngân sách nhà nước của Việt Nam được cơ cấu lại theo hướng tích cực, đảm bảo an toàn, an ninh tài chính quốc gia, góp phần hạn chế áp lực lên lãi suất và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Tỷ lệ nợ công có xu hướng giảm, năm 2018 ở mức 58,4% GDP, thấp hơn các năm 2015- 2017 và dưới ngưỡng 65% GDP Quốc hội cho phép. Xu thế tích cực này của chính sách tài khóa giúp giảm áp lực đối với lãi suất, tỷ giá, góp phần tạo niềm tin của người dân vào chính sách.

Mặc dù, phối hợp CSTK - CSTT được tăng cường nhằm ứng phó với lạm phát, tuy nhiên, tác động của CSTK - CSTT thắt chặt đã làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kết quả là lạm phát năm 2012 giảm xuống còn 9,21%; tốc độ tăng trưởng GDP giảm từ 6,24% của năm 2011 xuống còn 5,25% vào năm 2012. Trước thực tế đó, CSTK - CSTT chuyển sang hướng tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.

Về phía CSTK, các biện pháp về gia hạn nộp thuế và giảm thuế đã được thực hiện như: Gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) cuối năm 2012 và năm 2013; giảm thuế suất thuế TNDN sớm hơn lộ trình cho các DN nhỏ và vừa, các DN sử dụng nhiều lao động trong một số lĩnh vực đặc thù. Cũng trong giai đoạn này, thuế suất thuế TNDN liên tục giảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN năm 2013… Đồng thời, còn thực hiện đẩy nhanh việc giải ngân vốn đầu tư NSNN, vốn TPCP, vốn chương trình mục tiêu quốc gia…

Về CSTT, tiếp tục hạ mặt bằng lãi suất tín dụng phù hợp với mức giảm của lạm phát, các mức lãi suất chủ đạo cũng đã liên tục được điều chỉnh giảm nhằm tạo điều kiện hạ mặt bằng lãi suất hỗ trợ cho các doanh nghiệp và nền kinh tế; có biện pháp hỗ trợ, đơn giản hóa thủ tục cho vay; tăng tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn, DN vừa và nhỏ, DN sản xuất hàng xuất khẩu, DN công nghiệp hỗ trợ.

Giai đoạn 2016-2020

Có thể thấy, sự phối hợp giữa CSTK và CSTT trong nửa đầu giai đoạn (2011-2015) đã được chú trọng và đảm bảo hướng tới một mục tiêu chung là ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả phối hợp 2 chính sách này vẫn chưa cao, khiến cho mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô chưa thực sự bền vững. Sang đến nửa sau của giai đoạn (2016-2020), hiệu quả phối hợp CSTK – CSTT đã có sự cải thiện, hướng đến duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng và đẩy mạnh các cải cách để cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2020 theo tinh thần Nghị quyết số 05-NQ/TW và Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 18/11/2016.

(i) Đối với CSTK: Hệ thống chính sách thu NSNN tiếp tục được điều chỉnh nhằm hỗ trợ cho đầu tư và sản xuất kinh doanh như tiếp tục hạ thuế suất phổ thông thuế TNDN xuống còn 20% từ năm 2016; miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp; điều chỉnh một số sắc thuế nhằm định hướng tiêu dùng và khai thác, sử dụng tiết kiệm tài nguyên, thiên nhiên; giảm thuế suất thuế nhập khẩu để thực hiện các cam kết hội nhập. Đồng thời, tiếp tục thực hiện hiện đại hóa công tác quản lý thu (mở rộng thực hiện hóa đơn điện tử, khai thuế qua mạng cho các DN, triển khai dịch vụ nộp thuế điện tử...), đơn giản thủ tục, vừa tạo thuận lợi tối đa cho người nộp thuế, vừa tập trung đầy đủ, kịp thời nguồn thu vào NSNN. Tỷ lệ huy động thu vào NSNN bình quân 2016-2018 đạt 24,9% GDP; tỷ lệ thu nội địa bình quân đạt 80% tổng thu ngân sách, cao hơn mức 67,7% của giai đoạn 2011-2015.

Cơ cấu lại chi NSNN được cơ cấu lại theo các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; tăng cường quản lý chi NSNN chặt chẽ, tiết kiệm; đổi mới kiểm soát chi, đơn giản hóa hồ sơ, rút ngắn thời gian xử lý, đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt. Cơ cấu chi ngân sách có bước chuyển dịch tích cực, tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển (đạt 27 - 28% tổng chi ngân sách), giảm tỷ trọng chi thường xuyên (62 - 63% tổng chi ngân sách).

(ii) Đối với CSTT: CSTT giai đoạn 2016-2020 tiếp tục được điều hành thận trọng, linh hoạt theo diễn biến của nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã kiểm soát tổng phương tiện thanh toán và tín dụng ở mức hợp lý, đảm bảo duy trì lạm phát ổn định, tạo dư địa để Chính phủ điều chỉnh giá các mặt hàng nhà nước quản lý. Trong đó, lãi suất được điều hành phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng (TCTD) duy trì ổn định mặt bằng lãi suất. Tín dụng được điều hành theo hướng mở rộng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, vừa kiểm soát lạm phát, vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý.

Trong giai đoạn này, xử lý nợ xấu được đẩy mạnh với những khó khăn pháp lý gặp phải trong quá trình xử lý nợ xấu dần được tháo gỡ. Với Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/06/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD được Quốc hội ban hành, cơ sở pháp lý đối với xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm của của các TCTD đã được tạo lập và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc xử lý nợ xấu trong hệ thống TCTD. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã đạt được các kết quả tích cực khi toàn hệ thống đã xử lý được khoảng 70.000 tỷ đồng nợ xấu trong năm 2017, tăng 40% so với năm 2016. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD năm 2018 là 1,89%, giảm so với mức 2,46% cuối năm 2016 và mức 1,99% cuối năm 2017.

(iii) CSTK và CSTT đã hỗ trợ nhau hiệu quả.

Thứ nhất, CSTT duy trì ổn định tỷ giá và lãi suất, qua đó tạo thuận lợi cho quản lý nợ công và phát hành TPCP; đồng thời, thực hiện cơ cấu lại các TCTD không dựa trên nguồn lực từ NSNN, giúp giảm áp lực lên NSNN.

Hệ thống chính sách thu ngân sách nhà nước tiếp tục được điều chỉnh hỗ trợ cho đầu tư và sản xuất kinh doanh như tiếp tục hạ thuế suất phổ thông thuế thu nhập doanh nghiệp; miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp; điều chỉnh một số sắc thuế; giảm thuế suất thuế nhập khẩu... đồng thời, tiếp tục thực hiện hiện đại hóa công tác quản lý thu, đơn giản thủ tục, vừa tạo thuận lợi tối đa cho người nộp thuế, vừa tập trung đầy đủ, kịp thời nguồn thu vào ngân sách nhà nước.

Kể từ năm 2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chuyển sang điều hành tỷ giá theo cơ chế tỷ giá trung tâm. Cơ chế tỷ giá trung tâm và các công cụ điều tiết thị trường ngoại hối đã phát huy được hiệu quả hạn chế hành vi đầu cơ, găm giữ ngoại tệ. Nhờ đó, tỷ giá cơ bản được duy trì tương đối ổn định dù chịu nhiều áp lực từ các biến động của kinh tế thế giới. Tỷ giá ổn định có tác động tích cực đến nợ nước ngoài của quốc gia, giúp NSNN tránh được các áp lực trả nợ, do đồng nội tệ mất giá.

Bên cạnh đó, mặt bằng lãi suất có xu hướng giảm và được giữ ổn định ở mức thấp tạo thuận lợi cho việc phát hành TPCP với chi phí vay thấp. Tính đến tháng 10/2019, lãi suất huy động bằng VND phổ biến ở mức 0,2 -1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,5 - 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,5-6,8%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,6 - 7,5%/năm. Về lãi suất cho vay, mặt bằng lãi suất cho vay VND phổ biến ở mức 6,0-9,0%/năm đối với ngắn hạn; 9,0-11%/năm đối với trung và dài hạn.

Quá trình cơ cấu lại các TCTD chủ yếu sử dụng các nguồn lực của xã hội và không sử dụng trực tiếp tiền từ NSNN, do đó không làm gia tăng chi NSNN. Các TCTD đã chủ động và đẩy mạnh cơ cấu lại danh mục đầu tư, cơ cấu tài sản có dịch chuyển theo hướng tích cực, dòng vốn tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Đồng thời, vấn đề nợ xấu đang được tích cực xử lý, giúp khơi thông nguồn vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện để duy trì lãi suất ở mức thấp.

Thứ hai, cơ cấu lại NSNN được đẩy mạnh hướng đến bền vững tài khóa, đảm bảo an toàn, an ninh tài chính quốc gia, nhờ đó góp phần hạn chế áp lực lên lãi suất và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Bội chi NSNN có xu hướng giảm, cơ cấu thu chi ngân sách có sự thay đổi theo hướng bền vững hơn. Như phần trước đã chỉ ra, đóng góp vào thu ngân sách hiện nay chủ yếu đến từ nguồn thu nội địa, tỷ trọng chi đầu tư có xu hướng tăng, chi cho con người trong chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn. Nhờ đó, tỷ lệ nợ công có xu hướng giảm, năm 2018 ở mức 58,4% GDP, thấp hơn các năm 2015-2017 và dưới ngưỡng 65% GDP mà Quốc hội cho phép. Những xu thế tích cực này của CSTK không chỉ giúp giảm áp lực đối với lãi suất, tỷ giá mà còn góp phần tạo niềm tin của người dân vào chính sách.

Thứ ba, sự phối hợp trong điều hành của CSTK và CSTT còn được thể hiện trong việc phát hành TPCP. Theo quy định của Luật NHNN 2010, NHNN làm đại lý cho Kho bạc Nhà nước (KBNN) trong việc tổ chức đấu thầu, phát hành, lưu ký và thanh toán tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc. Bên cạnh đó, phần lớn nguồn lực huy động từ phát hành TPCP được tài trợ bởi hệ thống ngân hàng trên cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, với tỷ lệ nắm giữ lên tới 70 - 80%. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra vấn đề về hiệu ứng chèn lấn đầu tư tư nhân khi nguồn lực được hút vào khu vực công thông qua TPCP. Những năm gần đây, cơ cấu nhà đầu tư TPCP đã có sự thay đổi với tỷ lệ nắm giữ của ngân hàng thương mại (NHTM) giảm xuống, từ 79,7% năm 2014 xuống còn khoảng 51,1% năm 2018. Bên cạnh đó, tỷ lệ đầu tư TPCP tính đến cuối năm 2017 khá nhỏ, vào khoảng 7,28% trong tổng tài sản của hệ thống ngân hàng.

Mặt khác, việc NHTM nắm giữ TPCP cũng giúp NHTM đảm bảo khả năng an toàn vốn, đa dạng hóa danh mục đầu tư và kinh doanh khi có nguồn vốn nhàn rỗi nhằm tối đa hóa lợi nhuận trong phạm vi an toàn của NHNN. Hơn nữa, NHTM mua TPCP cũng là công cụ hỗ trợ để NHNN điều hành chính sách tiền tệ như thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, cho vay tái cấp vốn.

Những vấn đề đặt ra

Mặc dù, giữa CSTK và CSTT những năm gần đây đã có sự phối hợp chặt chẽ hơn, nhưng để sự phối hợp giữa CSTK, CSTT được hiệu quả thì đòi hỏi mỗi chính sách phải có sự bền vững và độ tin cậy. Xem xét tính bền vững và tin cậy của CSTK và CSTT của Việt Nam cho thấy một số thách thức đặt ra như sau:

- Đối với CSTK, cơ cấu thu NSNN còn dựa vào các khoản thu từ vốn, các khoản thu có tính chất một lần. Trong khi đó, nhu cầu chi NSNN ở mức cao, nhất là chi cho đầu tư phát triển, áp lực lên hệ thống an sinh xã hội do vấn đề già hóa dân số. Năm 2018, chi thường xuyên chiếm trên 60% tổng chi NSNN, trong khi đó tại thời điểm năm 2006, tỷ lệ này là 53%. Hiệu quả chi tiêu công tuy được cải thiện nhưng còn chậm, phân bổ nguồn lực còn phân tán. Thêm vào đó, bội chi NSNN kéo dài dẫn đến sự tăng lên của nợ công. Dư nợ công năm 2018 tuy giảm xuống nhưng vẫn ở mức cao, trong khi đó khả năng tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi giảm dần, đã làm thu hẹp dư địa về khả năng can thiệp của Chính phủ khi cần thiết.

- Đối với hoạt động phát hành TPCP và quản lý ngân quỹ, trong một thời gian dài, nguồn tiền gửi thanh toán của KBNN thường nằm tại các NHTM với quy mô khá lớn. Đây là nguồn huy động chi phí thấp cho các ngân hàng nhưng việc KBNN gửi tiền tại các NHTM cũng đặt ra những vấn đề. Đối với CSTK, tiền gửi của KBNN tại NHTM thường hưởng lãi suất không kỳ hạn hoặc lãi suất kỳ hạn thấp, trong khi một phần tiền gửi của KBNN là từ phát hành TPCP với lãi suất cao hơn do có kỳ hạn dài hơn. Điều này gây áp lực lên NSNN hàng năm để bù phần chênh lệch lãi suất. Còn đối với CSTT, các ngân hàng có thể đầu tư tiếp vào TPCP từ tiền gửi của KBNN, rồi lại dùng TPCP đó để cầm cố vay vốn hoặc chiết khấu tại NHNN để lấy vốn cho vay và kinh doanh. Điều này gây ra các vấn đề phức tạp trong việc quản lý cung tiền và điều hành CSTT.

Tuy nhiên, ngày 30/8/2019, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 58/2019/TT-BTC quy định về quản lý và sử dụng tài khoản của KBNN mở tại NHNN Việt Nam và các NHTM. Theo quy định mới sẽ chuyển toàn bộ nguồn tiền gửi thanh toán của KBNN đang nằm tại các NHTM về tài khoản tổng hợp của KBNN tại Trung ương và tài khoản này tập trung tại Sở Giao dịch NHNN. Theo đó, giúp nhà điều hành CSTT có sự hợp tác chặt chẽ hơn từ CSTK, để tăng thêm chủ động trong nắm bắt và cân đối, điều tiết nguồn vốn trong hệ thống hàng ngày. Mặc dù vậy, để tránh lãnh phí nguồn lực và áp lực lên NSNN, đòi hỏi vẫn cần có sự tính toán hợp lý kế hoạch phát hành và giải ngân vốn TPCP.

- Đối với CSTT, nhiều yếu kém của hệ thống ngân hàng có tính hệ thống và tồn tại lâu dài, chưa được giải quyết như sở hữu chéo, đầu tư chéo, nợ xấu và quản lý rủi ro chưa đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Tình trạng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng tuy có sự cải thiện nhưng chưa được xử lý dứt điểm, làm hạn chế khả năng hạ lãi suất cho vay để hỗ trợ sản xuất – kinh doanh, đồng thời tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với an toàn, hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng.

Hoạt động quản trị rủi ro trong kinh doanh của các NHTM ngày càng được chú trọng, triển khai Basel II được coi là trọng tâm trong thực hiện Đề án tái cơ cấu hệ thống các TCTD giai đoạn 2011- 2015 và giai đoạn 2016 - 2020. Tuy nhiên, khi triển khai Basel II đòi hỏi các ngân hàng phải thực hiện tăng vốn để đảm bảo hệ số an toàn vốn, nâng cao năng lực quản trị, xây dựng hệ thống và thu thập dữ liệu... Điều này đang tạo ra áp lực tăng vốn trung – dài hạn của các ngân hàng, qua đó sẽ có thể tác động đến mặt bằng lãi suất trong nước.

Ngay cả các NHTM nhà nước cũng đang gặp khó khăn trong việc tăng vốn chủ sở hữu để đảm bảo hệ số CAR. Các NHTM nhà nước có thể tăng vốn bằng nguồn được cấp từ NSNN hoặc từ nguồn để lại cổ tức NSNN được chia hàng năm từ kết quả kinh doanh của các NHTM này. Tuy nhiên, các NHTM nhà nước gần đây đã không còn được NSNN cấp vốn để tăng vốn điều lệ. Còn đối với việc tăng vốn bằng nguồn để lại cổ tức NSNN thì phải đưa vào kế hoạch chi ngân sách, đầu tư vốn từ ngân sách hàng năm, cần được sự phê duyệt của Chính phủ và Quốc hội. Việc các NHTM nhà nước khó khăn để tăng vốn đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn theo Basel II sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng của Việt Nam.

Một số đề xuất cho thời gian tới

Để nâng cao hiệu quả phối hợp CSTK và CSTT, thời gian tới cần tập trung nâng cao tính tin cậy và bền vững của từng chính sách, đồng thời đẩy mạnh sự trao đổi thông tin, phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHNN trong việc điều hành chính sách. Các giải pháp cụ thể như sau:

- Đối với CSTK, tiếp tục thực hiện cơ cấu lại NSNN, giảm dần bội chi NSNN, hướng tới việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ tăng trưởng bền vững; Tiếp tục tái cấu trúc nợ công và quản lý chặt chẽ sự gia tăng của nợ công cũng như các rủi ro về nợ công, đảm bảo các rủi ro liên quan đến nợ công, nợ chính phủ và nợ nước ngoài quốc gia và các rủi ro tài khóa được quản lý, giám sát chặt chẽ.

- Tập trung phát triển thị trường TPCP, trong đó cần đẩy mạnh đa dạng hóa nhà đầu tư, đảm bảo an toàn hệ thống, tiếp cận với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế, tiếp tục kéo dài kỳ hạn vay qua phát hành TPCP trong nước; Bộ Tài chính phối hợp với NHNN trong việc hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến phát triển thị trường trái phiếu trong mối liên kết với thị trường tiền tệ.

- Điều hành CSTT cần linh hoạt, bám sát diễn biến thị trường, kiên trì với mục tiêu ổn định lạm phát; đồng thời, đẩy mạnh công tác tái cơ cấu hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu giúp nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế hướng đến phát triển bền vững.

- Thiết lập hệ thống cung cấp thông tin, thực hiện minh bạch đối với các kỳ vọng chính sách cũng như trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách. KBNN và NHNN cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ trong trao đổi các thông tin như cập nhật các luồng thu - chi của KBNN cũng như dòng tiền vào/ra hàng ngày tại các tài khoản của KBNN tại NHNN và TCTD để phối hợp chặt chẽ giữa điều hành CSTT và CSTK. Đồng thời, Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ với NHNN trong việc xây dựng kế hoạch vay – trả nợ nước ngoài; phát hành TPCP với khối lượng, kỳ hạn, lãi suất và thời điểm hợp lý để không làm tăng lãi suất thị trường, ảnh hưởng đến cân đối vốn của các TCTD.

- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều công nghệ mới ra đời đang làm thay đổi cách thức giao dịch trên thị trường tài chính. Hơn nữa, ứng dụng công nghệ thông tin cũng sẽ giúp cho việc trao đổi thông tin trong điều hành CSTK và CSTT được hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, hiệu quả phối hợp giữa CSTK - CSTT cũng phụ thuộc vào năng lực phân tích dự báo tại Bộ Tài chính và NHNN, nên cần nâng cao năng lực phân tích cho các đơn vị làm công tác dự báo tại 2 cơ quan này.        

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Tài chính (2019), “Bản tin nợ công số 08”;

2. Nguyễn Viết Lợi (2019), “Tài chính Việt Nam 2018: Dịch chuyển bao trùm, phát triển bền vững”, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, NXB Tài chính;

3. Vũ Nhữ Thăng và nhóm nghiên cứu (2013), “Phối hợp chính sách tài khóa – tiền tệ trong điều tiết kinh tế vĩ mô giai đoạn 2011-2015”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2012, Bộ Tài chính;

4. Võ Thành Hưng (2018), “Cơ cấu chi ngân sách nhà nước và những vấn đề đặt ra về tái cấu trúc hướng đến phát triển nhanh, toàn diện, bền vững”, Diễn đàn Tài chính Việt Nam 2018 về Tái cấu trúc nền tài chính quốc gia hướng đến phát triển nhanh, toàn diện và bền vững của Việt Nam, Hà Nội, ngày 20/09/2018, tr.195-2012;

5. Hà Thị Sáu (2019), “Tăng vốn chủ sở hữu và đảm bảo án toàn của các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước: Một số vấn đề đặt ra và giải pháp tài chính”, Diễn đàn Tài chính Việt Nam 2018 về Cải cách chính sách tài chính nhằm tạo động lực đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế ở Việt Nam, Hà Nội, ngày 19/09/2018, tr.447-456;

6. Lương Văn Hải (2019), “Cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa điều hành chính sách tiền tệ với chính sách tài chính thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế”, Diễn đàn Tài chính Việt Nam 2018 về Cải cách chính sách tài chính nhằm tạo động lực đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế ở Việt Nam, Hà Nội, ngày 19/09/2018, tr.467-474;

7. Một số website: http://tapchitaichinh.vn; http://thoibaonganhang.vn; http://thitruongtaichinhtiente.vn; http://tapchinganhang.gov.vn.