Bảo đảm đồng bộ giữa chính sách quản lý nợ công với chính sách tài khóa

PV.

Sáng nay, 25/5, Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự án Luật quản lý nợ công (sửa đổi).

Việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công 2009 là cần thiết để khắc phục những tồn tại, hạn chế sau hơn 6 năm triển khai thi hành Luật Quản lý nợ công.
Việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công 2009 là cần thiết để khắc phục những tồn tại, hạn chế sau hơn 6 năm triển khai thi hành Luật Quản lý nợ công.
Dự thảo Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) gồm 10 chương, 67 điều. Trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu và quan điểm sửa đổi Luật nêu trên, dự thảo Luật có một số nội dung sửa đổi chủ yếu liên quan đến phạm vi nợ công; nguyên tắc quản lý nợ công; nhiệm vụ, quyền hạn các cơ quan; quản lý rủi ro đối với nợ công…
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, qua hơn 6 năm thực hiện, Luật Quản lý nợ công 2009 đã tạo hành lang pháp lý phù hợp với mức độ phát triển kinh tế-xã hội, góp phần quan trọng trong việc huy động vốn cho bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước.

Hiện nay, theo như số liệu báo cáo và đánh giá của Chính phủ, nợ công vẫn trong giới hạn an toàn và đang thực hiện theo lộ trình của “Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia đến năm 2020”, với tỷ lệ nợ công/GDP sẽ giảm dần từ năm 2018.
Giới hạn an toàn thường nhắc đến là tổng số nợ công không quá 65% GDP và tổng số nợ hằng năm phải trả không quá 25% tổng thu ngân sách Nhà nước.
Trong giai đoạn 2010-2016, đã phát hành trên 1.277 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ với tốc độ tăng bình quân 36%/năm; huy động được khối lượng lớn vốn ODA, ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài với tổng trị giá cam kết đạt 36,6 tỷ USD, trong đó đã giải ngân 32,8 tỷ USD (khoảng 658 nghìn tỷ đồng) nhằm tăng cường nguồn lực cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo.

Đáng chú ý, Luật Quản lý nợ công cũng tạo điều kiện để tăng cường công tác quản lý nợ chặt chẽ, đảm bảo trả nợ Chính phủ đầy đủ, đúng hạn. Đến cuối năm 2016, các chỉ tiêu nợ về cơ bản nằm trong giới hạn cho phép: nợ công ở mức 63,7% GDP, nợ của Chính phủ ở mức 52,6% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia ở mức 44,3% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ là 14,8% tổng thu ngân sách Nhà nước.

Đồng thời, Luật tạo điều kiện cho các địa phương huy động vốn vay thông qua phát hành trái phiếu chính quyền địa phương và vay lại từ nguồn vốn vay nước ngoài; cơ cấu nợ đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỉ trọng vay nợ trong nước, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia; quản lý nợ công từng bước được hoàn thiện theo hướng công khai, minh bạch, tiếp cận với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Qua đó góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Quản lý nợ công 2009 cũng đã bộc lộ một số hạn chế, theo đó, về mặt pháp luật đã bộc lộ một số bất cập như còn có quan điểm khác nhau về phạm vi nợ công. Chẳng hạn cần thống nhất việc có tính các khoản nợ phát sinh từ điều hành ngân sách, nợ của doanh nghiệp Nhà nước, nợ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, những khoản nợ này có tính vào nợ công hay không...

Vì vậy, việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công 2009 là cần thiết để khắc phục những tồn tại, hạn chế sau hơn 6 năm triển khai thi hành Luật Quản lý nợ công.

Việc xây dựng Luật cần tập trung vào việc làm rõ phạm vi, công cụ, quy định về cho vay lại, bảo lãnh chính phủ, vay nợ của chính quyền địa phương; phân định rõ ràng giữa chính sách tài khóa, tiền tệ, đầu tư công  với quản lý nợ công; tăng cường giám sát, quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn nợ công; hoàn thiện công tác thống kê, kế toán, kiểm tra, thanh tra; tăng cường trách nhiệm giải trình gắn với chức năng, nhiệm vụ quản lý nợ công.

Mục tiêu xây dựng luật là nhằm khắc phục tồn tại, vướng mắc, thiếu đồng bộ, bất cập trong quá trình thực hiện Luật Quản lý nợ công hiện nay và bảo đảm tính khả thi, ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng vốn vay, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

Hoàn thiện chính sách bảo đảm đồng bộ giữa chính sách quản lý nợ công với chính sách tài khóa, tiền tệ và đầu tư công; huy động vốn đầy đủ, kịp thời cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội; bảo đảm an toàn, bền vững nợ công; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay; tạo điều kiện thực hiện quản lý nợ chủ động. 

Sau khi nghe Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng trình bày, Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính- Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải đã trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật trước Quốc hội.

Cụ thể, theo Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) của Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội khẳng định sự tán thành về sự cần thiết sửa đổi Luật nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, đặc biệt việc sửa đổi phải góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý, bảo đảm an toàn, đáp ứng yêu cầu quản lý nợ công trong tình hình mới.

Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội đã đưa ra nhận định: Ban soạn thảo đã có quá trình chuẩn bị công phu từ khâu tổng kết, đánh giá thực tiễn, rà soát pháp luật đến nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, đánh giá tác động, xây dựng Dự thảo luật, tổ chức lấy ý kiến, tiếp thu ý kiến để hoàn thiện Dự thảo luật.

Hồ sơ dự án Luật đã đảm bảo đầy đủ các tài liệu để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Tuy nhiên, đối chiếu với yêu cầu đặt ra, với tính chất là đạo luật điều chỉnh nội dung phức tạp, liên quan trực tiếp đến an ninh tài chính quốc gia, Ủy ban Tài chính-Ngân sách nhận thấy, một số nội dung cần được tiếp tục rà soát, hoàn chỉnh trong đó có nội dung về phạm vi sửa đổi, về tính cụ thể của Dự thảo luật; cần hạn chế các nội dung phải dẫn chiếu nhằm giảm thiểu các văn bản dưới luật, tạo sự ổn định, thuận tiện cho quá trình thực hiện…