Dấu ấn nổi bật trong thi hành pháp luật tài chính ASXH

Theo Cổng thông tin Điện tử Bộ Tài chính

(Tài chính) Ngày 17/01, Bộ Tài chính tổ chức Hội thảo đánh giá thi hành pháp luật và pháp luật tài chính trong lĩnh vực an sinh xã hội (ASXH). Hội thảo thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia về chính sách pháp luật đến từ Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội và Sở Tài chính các tỉnh. Đây là diễn đàn để các nhà hoạch định chính sách đánh giá lại việc thực thi pháp luật và đặc biệt là pháp luật tài chính trong lĩnh vực ASXH nhằm rút ra những bài học, những kiến nghị cho thời gian tới.

Dấu ấn nổi bật trong thi hành pháp luật tài chính ASXH
Toàn cảnh Hội thảo
Ban hành nhiều chương trình, chính sách ASXH

Đánh giá về việc thực thi các chính sách ASXH ở Việt Nam, TS. Vũ Nhữ Thăng - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính - Bộ Tài chính nhấn mạnh, những năm qua, pháp luật về ASXH đã được ban hành và triển khai thực hiện với nhiều chương trình như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, các chính sách bảo trợ xã hội, ưu đãi xã hội và dịch vụ xã hội. Theo đó, với công tác đảm bảo ASXH đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, cụ thể: Số hộ nghèo giảm từ 28,9% (năm 2002) xuống còn 12,6% (năm 2011) và năm 2012 ước tính khoảng 11,3 đến 11,5%; chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,29 lần (năm 1999) còn 1,98 lần (năm 2010); đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt.

Đối với bảo hiểm xã hội (BHXH), hình thức BHXH bắt buộc được áp dụng cho toàn bộ khu vực chính thức. Năm 1995 cả nước có 2,2 triệu người tham gia loại bảo hiểm này thì đến 2010 con số đã tăng lên 9,3 triệu người và năm 2011 là 10,1 triệu người; đối với bảo hiểm y tế (BHYT), BHYT bắt buộc cũng áp dụng cho người lao động trong khu vực chính thức, BHYT tự nguyện cho các đối tượng học sinh, sinh viên và mọi người dân, người nghèo được cấp thẻ BHYT, người cận nghèo được hỗ trợ theo tỷ lệ % mức đóng thẻ BHYT. Số lượng người tham gia BHYT ngày càng tăng từ 3,7 triệu người năm 1993 lên khoảng 57 triệu người năm 2011; đối với bảo hiểm thất nghiệp, mặc dù mới thực hiện từ năm 2009 nhưng đã có 7,96 triệu người tham gia năm 2011.

Phó Chánh Thanh tra Sở Tài chính Ninh Bình Phạm Ngọc Dũng: “Tại Ninh Bình, chính sách pháp luật trong lĩnh vực an sinh xã hội đã đi vào cuộc sống, đến đúng đối tượng thụ hưởng, góp phần xoá đói giảm nghèo, thể hiện qua các kết quả cụ thể: Số người tham gia BHXH hàng năm đều tăng: Năm 2007 mới có 43.534 lao động tham gia thì đến đầu năm 2011 đã tăng lên 68.354 lao động (tăng 1,57 lần); năm 2008 số người tham gia BHXH tự nguyện là 84 người, năm 2011 tăng lên là 775 người; số người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp năm 2009 là 27.259 lao động, năm 2011 đã có 58.351 lao động (tăng 2,1 lần); Năm 2009 số người tham gia BHYT là 514.696 người đến nay đã có gần 600.000 người tham gia;…Giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012 kinh phí thực hiện an sinh xã hội được cấp là 592, 756 triệu đồng góp phần tạo điều kiện cho các đối tượng, hộ dân vươn lên xoá đói giảm nghèo…”

Bên cạnh các chính sách ASXH theo nguyên tắc đóng-hưởng thì các chương trình trợ giúp xã hội không dựa trên nguyên tắc đóng-hưởng cũng ngày càng gia tăng, nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội ngày càng mở rộng. Các chính sách trợ giúp xã hội (cả thường xuyên và đột xuất) được thực hiện rộng hơn về quy mô, đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng. Kinh phí trợ giúp thường xuyên từ NSNN và số người được thụ hưởng tăng nhanh từ 113 tỷ đồng cho hơn 180 nghìn người (năm 2001) tăng lên 4.500 tỷ đồng cho hơn 1,6 triệu người (năm 2010). Hàng năm, Nhà nước còn trợ cấp đột xuất hàng nghìn tỷ đồng (riêng năm 2009 là 5.000 tỷ đồng) và hàng chục nghìn tấn lương thực, chủ yếu là để trợ giúp khắc phục thiên tai.
 
Đối với thực hiện chính sách người có công, mặc dù số lượng người hưởng chính sách có xu hướng giảm từ 2,8 triệu người năm 2001 xuống 1,4 triệu người năm 2011 nhưng mức trợ cấp lại tăng lên (mức trợ cấp ưu đãi người có công được điều chỉnh năm 2012 tăng 26,7% so với trước đó, từ 876.000 đồng lên 1.110.000 đồng theo Nghị định số 47/2012/NĐ-CP); Chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác của Chính phủ cũng đã đến với người nghèo và các đối tượng chính sách trong cả nước với mức hỗ trợ vốn cho trên 12,2 triệu luợt hộ nghèo.

TS. Vũ Nhữ Thăng cho biết, đối với năm 2012, ngân sách đã chi trả đầy đủ, kịp thời các nhiệm vụ chi ASXH đã bố trí trong dự toán NSNN cho các đối tượng thụ hưởng chính sách. Tổng số kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội năm 2012 khoảng 323.920 tỷ đồng, bằng 35,8% tổng chi NSNN.

Trong đó, thứ nhất, chi hỗ trợ để thực hiện cải cách tiền lương (nâng lương tối thiểu chung và phụ cấp công vụ) là khoảng 260.900 tỷ đồng, tăng 38,7% so với thực hiện năm 2011; Thứ hai là nhóm chính sách chi hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng khoảng 53.940 tỷ đồng. Nhóm này bao gồm các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế 0 xã hội (KT-XH) các xã, hỗ trợ huyện nghèo, hỗ trợ mô hình xây dựng nông thôn mới, chính sách bảo trợ xã hội, chính sách khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi; Thứ ba là nhóm chính sách thực hiện thông qua hình thức miễn, giảm các khoản đóng góp của dân (một số loại thuế, thủy lợi phí, tiền thuê đất,…) khoảng 4.200 tỷ đồng; Thứ tư là nhóm chính sách thực hiện thông qua kênh tín dụng ưu đãi (cho vay đối với đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, học sinh và sinh viên có hoàn cảnh khó khăn…) khoảng 4.880 tỷ đồng.

Ngoài ra, trong năm 2012, Chính phủ cũng đã xuất cấp 41.376 tấn gạo dự trữ quốc gia trị giá khoảng 413 tỷ đồng để cứu trợ cho nhân dân ở những vùng bị thiếu đói, giáp hạt.

Đổi mới hình thức hỗ trợ

Nhận định về vai trò của hệ thống pháp luật ASXH, TS. Hoàng Thị Thanh Thủy nêu rõ, hệ thống pháp luật ASXH là một trong những cấu phần quan trọng trong các chương trình pháp luật của một quốc gia và là công cụ quản lý của Nhà nước thông qua hệ thống luật pháp, chính sách và các chương trình ASXH. Pháp luật ASXH còn là một trong những trụ cột cơ bản trong hệ thống chính sách xã hội. Nó hướng đến bảo đảm mức sống tối thiểu cho người dân, bảo vệ giá trị cơ bản và là thước đo trình độ phát triển của một nước trong quá trình phát triển và hội nhập.

Việc bảo đảm ASXH là nền tảng của phát triển KT-XH của đất nước. Thông qua việc áp dụng các cơ chế điều tiết, phân phối lại thu nhập giữa các khu vực kinh tế, các vùng kinh tế và các nhóm dân cư, ASXH được coi như một giá đỡ đảm bảo thu nhập cho người dân.Hệ thống pháp luật chính sách ASXH được thiết kế trên cơ sở các nguyên tắc công bằng, đoàn kết ở các mức độ khác nhau còn thể hiện giá trị và định hướng phát triển của một quốc gia

Hệ thống pháp luật ASXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững thông qua việc “điều hòa” các “mâu thuẫn xã hội”, đảm bảo xã hội không có sự loại trừ, điều tiết tốt hơn và hạn chế các nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn.

Theo TS. Hoàng Thị Thanh Thủy, vai trò của hệ thống pháp luật ASXH đối với đình cũng hết sức quan trọng: Nếu một hệ thống pháp luật ASXH được thiết kế hiệu quả có thể tại điều kiện cho các gia đình đầu tư tốt hơn cho tương lai, góp phần đưa ra quy định mang tính quy phạm để hỗ trợ các gia đình quản lý được rủi ro. Và hệ thống pháp luật ASXH còn góp phần đưa ra quy định mang tính quy phạm để hỗ trợ cho các gia đình quản lý được rủi ro. Pháp luật ASXH còn là một yếu tố bảo hiểm, cho phép các gia đình được lựa chọn sinh kế để phát triển. Như vậy, hệ thống pháp luật ASXH vừa bảo vệ cho các thành viên trong xã hội vừa nâng cao khả năng tồn tại độc lập của họ trong cuộc sống.

Để hướng tới hệ thống ASXH toàn dân bền vững, hiện đại phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập, TS. Hoàng Thị Thanh Thủy cho rằng, Nhà nước vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong hệ thống ASXH, tuy nhiên cần nghiên cứu đổi mới phân bổ nguồn tài chính từ NSNN, xây dựng và hoàn thiện cơ chế khuyến khích, huy động nguồn lực từ người dân và cộng đồng xã hội cho ASXH. đổi mới hình thức hỗ trợ các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, chuyển dần từ hình thức bao cấp toàn bộ sang đồng chia sẻ về kinh phí.

Định hướng quan trọng

Trước những tồn tại việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam như: Hệ thống pháp luật ASXH phát triển chưa đầy đủ, toàn diện, thiếu sự liên kết và hỗ trợ nhau giữa các chính sách, trong một số trường hợp còn chồng chéo. Diện bao phủ của các chính sách ASXH mặc dù tăng nhanh nhưng chưa cao, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, các vùng có điều kiện KT-XH. Hệ thống chính sách trợ giúp việc làm, xóa đói giảm nghèo… chậm được kết nối vào hệ thống tổng thể về ASXH dẫn tới sự rời rạc, chưa đáp ứng được yêu cầu. Nguồn tài chính cho ASXH chủ yếu tập trung ở khu vực Nhà nước, việc huy động đa dạng hóa các nguồn lực còn hạn chế, thiếu chế tài buộc các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ tài chính trong đảm bảo ASXH…, các chuyên gia tại hội thảo đều có chung nhận định phương hướng tổ chức hệ thống và chính sách ASXH trong thời gian tới cần quan tâm đến 4 nội dung:

Thứ nhất, xây dựng hệ thống ASXH toàn diện, vững chắc, đa tầng và linh hoạt trên cơ sở các chính sách huy động được nhiều nguồn lực và nhiều lớp phòng ngừa, đảm bảo cho mọi người dân được tham gia vào hệ thống ASXH;

Thứ hai, hệ thống ASXH cần được hoàn thiện theo hướng đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho những người tham gia và nâng dần mức độ tác động tới các đối tượng thụ hưởng;

Thứ ba, mọi thành viên tham gia hệ thống ASXH phải được đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ;

Thứ tư, chi tiêu công cho các chương trình trợ giúp xã hội hiện nay còn thấp đòi hỏi phải có sự rà soát, cơ cấu lại theo hướng tăng tỷ trọng cho các chương trình trợ giúp xã hội, chương trình giảm nghèo và phát triển thị trường lao động.

Các chuyên gia cũng đề xuất để thực hiện được các định hướng này, cần phải đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về ASXH; phối hợp đồng bộ chính sách ASXH với các chính sách KT-XH khác; hoàn thiện tổ chức quản lý hệ thống ASXH và tăng cường vai trò của Nhà nước.