Nhìn lại cải cách thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực tài chính

PV.

(Tài chính) Năm 2014, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã phối hợp với các Bộ, ngành triển khai nhiều hoạt động và giải pháp nhằm cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính (TTHC) trong các lĩnh vực tài chính, tạo điều kiện giúp doanh nghiệp (DN) tháo gỡ khó khăn vướng mắc, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của DN, phát huy mọi nguồn lực xã hội và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.

Năm 2014, toàn ngành Tài chính đã tích cực triển khai nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy cải cách hành chính trong các lĩnh vực tài chính. Nguồn: internet
Năm 2014, toàn ngành Tài chính đã tích cực triển khai nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy cải cách hành chính trong các lĩnh vực tài chính. Nguồn: internet

Đối với lĩnh vực Thuế

Bộ Tài chính đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành có liên quan, các tổ chức hiệp hội nghề, DN trong nước và quốc tế để điều tra, đánh giá, rà soát và xác định nguyên nhân dẫn đến thời gian nộp thuế cao. Theo đó, Bộ Tài chính đã xác định và tập trung vào các giải pháp và chương trình hành động nhằm giảm số lần, thời gian khai, nộp thuế của người nộp thuế qua việc ban hành và trình ban hành:

- Ban hành Thông tư số 119/2014/TT-BTC hướng dẫn sửa đổi, bổ sung về nội dung và mẫu biểu của 7 Thông tư nhằm cải cách, đơn giản TTHC về thuế. Thông tư đã bãi bỏ, đơn giản nhiều bảng kê; làm rõ căn cứ xác định thuế hộ nộp thuế khoán được miễn, giảm; sửa đổi, bổ sung nội dung về khai, nộp thuế thu nhập DN theo hướng đơn giản hơn. Theo tính toán, việc ban hành và triển khai Thông tư 119/2014/TT-BTC đã cắt giảm được 201,5 giờ kê khai, nộp thuế/năm.

- Thực hiện Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 25/8/2014 của Chính phủ, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 91/2014/NĐ-CP ngày 01/10/2014 (có hiệu lực từ ngày 15/11/2014) sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Nghị định quy định về thuế thu nhập DN, giá trị gia tăng, thu nhập các nhân, quản lý thuế. Qua đó, thời gian thực hiện nộp thuế của DN tiếp tục giảm được 88,36 giờ/năm.

- Tháng 11/2014, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ trình Quốc hội thông qua để ban hành Luật số 71/2014/QH13 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về Thuế (ngày 26/11/2014 tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII). Vì vậy, đến ngày 1/1/2015 khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều về tại các Luật về thuế (Luật số 71/2014/QH13) có hiệu lực thi hành sẽ xác định thời gian thực hiện TTHC thuế của DN giảm 80 giờ/năm. Ngay sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về Thuế được Quốc hội thông qua, Bộ Tài chính đã khẩn trương phối hợp với các cơ quan chức năng trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế nhằm nhanh chóng đưa bộ Luật này vào cuộc sống.

Ngành Thuế đã đẩy mạnh hiện đại hóa công tác quản lý thuế, tạo thuận lợi cho DN. Tính đến nay 63/63 Cục Thuế và trên 300 Chi cục Thuế trực thuộc đã triển khai hệ thống khai thuế qua mạng; Hệ thống khai thuế qua mạng đã cung cấp dịch vụ được cho hơn 397.130 người nộp thuế thực hiện khai thuế điện tử; đồng thời hệ thống khai thuế qua mạng cũng đã tiếp nhận và xử lý hơn 17,6 triệu hồ sơ khai thuế điện tử vào hệ thống quản lý thuế. Việc triển khai dịch vụ nộp thuế điện tử đã đạt được các kết quả tích cực: Hệ thống dịch vụ nộp thuế đã được thực hiện tại 18 tỉnh, thành phố trên cả nước; Tổng số DN đã đăng ký tham gia dịch vụ là 410 DN; Tổng số tiền đã nộp vào NSNN qua cổng thông tin dịch vụ nộp thuế điện tử của cơ quan Thuế là hơn 239 tỷ đồng.

Như vậy, ngay trong năm 2014, cùng với nỗ lực của Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan đã giúp đưa số DN thực hiện kê khai thuế điện tử trên toàn quốc từ 65% lên 95%; thời gian nộp thuế của DN giảm được 290 giờ, từ 537 giờ/năm xuống còn 247 giờ/năm (không bao gồm thời gian nộp bảo hiểm). Khi Luật sửa đổi một số điều của các Luật Thuế có hiệu lực (1/1/2015) sẽ giảm thêm được 80 giờ, từ 247 giờ/năm xuống còn 167 giờ/năm.

Đối với lĩnh vực Hải quan

Để thực hiện các mục tiêu tại Nghị quyết số 19/NQ-CP và Chỉ thị 24/CT-TTg về tăng cường quản lý, cải cách TTHC về hải quan, thực hiện đơn giản hóa thủ tục hải quan, phấn đấu đến hết năm 2015 sẽ phải giảm thời gian làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất,nhập khẩu qua cảng/cửa khẩu bằng mức bình quân chung của các nước ASEAN-6, từ đầu năm đến nay, cơ quan Hải quan thực hiện nhiều bước chuyển mạnh mẽ trong cải cách TTHC, thực hiện các giải pháp rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu. Có thể nêu một số kết quả như sau:

- Đã phối hợp với Ngân hàng Thế giới, Hiệp hội Tư vấn thuế, các DN xuất, nhập khẩu lớn… và các đơn vị có liên quan để có các giải pháp đơn giản hóa thủ tục hành chính hải quan, đặc biệt là giảm thời gian thông quan. Qua đó đã sửa việc giảm thủ tục ủy nhiệm thu nộp ngân sách, giảm số chứng từ DN phải in khi sử dụng hải quan điện tử;...

- Đã triển khai áp dụng thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thương mại (VNACCS/VCIS). Đến nay, VNACCS/VCIS đã được triển khai tại tất cả các đơn vị hải quan trong toàn quốc, đảm bảo chất lượng, không gây xáo trộn hay làm gián đoạn quá trình làm thủ tục hải quan của DN. Các DN đã nhanh chóng tiếp cận với hệ thống mới và việc thực hiện thông quan đã đi vào ổn định, việc thực hiện các chức năng quản lý nhà nước của cơ quan hải quan được bảo đảm, chặt chẽ và hiệu quả. Tính đến ngày 30/11/2014, đã có 100 % Cục, chi cục trong phạm vi cả nước thực hiện Hệ thống VNACCS/VCIS với kết quả như sau: Tổng số DN tham gia xuất nhập khẩu: 48,23 nghìn DN; Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu: 170,61 tỷ USD; Tổng số tờ khai: 4,24 triệu tờ khai.

 - Chủ trì triển khai áp dụng Cơ chế hải quan một cửa quốc gia (NSW) nhằm mang lại rất nhiều lợi ích cho DN, trong đó, lợi ích lớn nhất là rút ngắn thời gian để hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam giao lưu qua biên giới giảm xuống đáng kể. Theo thống kê đến ngày 31/12/2013, thời gian thông quan hàng hóa của Việt Nam là 21 ngày. Thực hiện tốt NSW, thời gian thông quan hàng hóa sẽ giảm được 3,5 đến 4 ngày. NSW giúp đơn giản hóa và hài hòa thủ tục đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, quá cảnh, đồng thời rút ngắn thời gian và giảm chi phí trong các thủ tục thông quan giải phóng hàng hóa XNK, quá cảnh. Theo tính toán của cơ quan quản lý, NSW sẽ cắt giảm từ 10 đến 20% chi phí, 30% thời gian cho việc thông quan lô hàng xuất nhập khẩu. Đối với cơ chế một cửa ASEAN, đã tham gia cùng với cộng đồng ASEAN hoàn thành dự án cơ chế một cửa ASEAN rút gọn, đang trong quá trình đàm phán ký Nghị định thư về Khung pháp lý một cửa ASEAN và chuẩn bị triển khai mở rộng dự án cơ chế một cửa ASEAN vào năm 2015, tiến tới hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN vào cuối tháng 12/2015...

- Tích cực triển khai các giải pháp nhằm rút ngắn thời gian kiểm tra chuyên ngành, đã đề nghị 11 Bộ, ngành có liên quan phối hợp triển khai rà soát, ban hành quy trình kiểm tra chuyên ngành đảm bảo thống nhất các nội dung về: hồ sơ, thủ tục và trình tự đăng ký kiểm tra chuyên ngành; mẫu giấy đăng ký kiểm tra, giấy thông báo kết quả kiểm tra; biện pháp xử lý hàng hóa không đạt yêu cầu kiểm tra…, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, cụ thể: Rà soát, xây dựng và ban hành Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải kiểm tra trước khi thông quan; Xây dựng và công bố tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các mặt hàng thuộc Danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành trước khi thông quan làm cơ sở cho cơ quan kiểm tra thực hiện kiểm tra; Nghiên cứu áp dụng phương pháp quản lý rủi ro trong hoạt động kiểm tra chuyên ngành nhằm giảm thời gian thông quan hàng hóa...

- Để giảm thời gian thông quan hàng hóa, giảm thời gian nộp thuế của DN, Tổng cục Hải quan đã phối hợp với KBNN rà soát các điểm thu của KBNN, điểm thu của các ngân hàng thương mại được KBNN ủy nhiệm thực hiện thu thuế cập nhật đúng các quy định về công tác tra cứu, cập nhật thông tin vào hệ thống trao đổi thông tin (1 giờ/1 lần thông tin thu và 1 ngày/1 lần Bảng kê giấy nộp tiền).

- Ngày 28/8/2014, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 126/2014/TT-BTC quy định một số thủ tục về kê khai, thu nộp thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt và các khoản thu khác đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu góp phần giảm nhiều thủ tục và vướng mắc đối với DN. Việc nộp thuế của DN sẽ được cơ quan Hải quan cập nhật nhanh hơn, thường xuyên hơn, chính xác hơn và sẽ hạn chế tối đa việc treo nợ thuế của người nộp thuế bằng các biện pháp như: truyền thông tin thu theo từng tờ khai qua cổng thanh toán điện tử hải quan cho cơ quan Hải quan 15 phút/01 lần. Thông tư số 126/2014/TT-BTC có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/10/2014 đã giúp DN thông quan nhanh lô hàng, góp phần giảm thời gian thông quan, trên cơ sở đó giám sát được những chi phí phát sinh.

- Kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho DN và hiện đại hóa công tác kiểm tra, giám sát hải quan, đã trang bị 11 hệ thống máy soi container không thu phí, cho hầu hết các cửa khẩu hoặc địa điểm kiểm tra hàng hóa tập trung tại các địa bàn trọng điểm có lưu lượng hàng hóa lớn.

- Đã trình Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật Hải quan và đang trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật và ban hành theo thẩm quyền các Thông tư hướng dẫn để đảm bảo thực hiện từ ngày 01/01/2015 theo đúng thời gian quy định. Như vậy, kể từ ngày 01/01/2015 Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn có hiệu lực thi hành sẽ đẩy mạnh cải cách thủ tục hải quan, hiện đại hoá quản lý hải quan, tạo thuận lợi tối đa cho người nộp thuế, qua việc thay đổi căn bản phương thức thực hiện thủ tục hải quan từ phương thức truyền thống, bán điện tử sang phương thức điện tử và tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính về hải quan theo hướng quy định chung thống nhất về hồ sơ hải quan.

Đối với hệ thống Kho bạc Nhà nước (KBNN)

Bộ Tài chính ban hành các quy định về thu NSNN qua KBNN và phối hợp thu NSNN, triển khai thực hiện quy trình thu NSNN theo dự án Hiện đại hoá thu NSNN nhằm cải cách quy trình thu NSNN theo hướng đơn giản về TTHC, giảm thiểu thời gian và thủ tục nộp tiền cho người nộp thuế; đồng thời, ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin điện tử tiên tiến vào quy trình quản lý thu NSNN.

Trong năm 2014, đã hoàn thành triển khai diện rộng thành công và vận hành hệ thống thanh toán song phương điện tử và phối hợp thu ngân sách trên toàn quốc với 4 hệ thống ngân hàng thương mại (BIDV, Agribank, Vietinbank và Vietcombank) cho hơn 700 KBNN cấp huyện trong hệ thống KBNN và sở giao dịch KBNN, đồng thời triển khai thành công thanh toán song phương điện tử và phối hợp thu ngân sách tại 45 đơn vị KBNN cấp tỉnh đang có tài khoản chuyên thu tại các ngân hàng thương mại.

Trên toàn hệ thống KBNN, trung bình 1 ngày có khoảng 25.000 lệnh thanh toán đi, với doanh số khoảng 2.500 tỷ đồng (chủ yếu chi ngân sách) và khoảng 36.000 lệnh thanh toán đến (gồm cả thu ngân sách và thu khác) qua hệ thống thanh toán song phương điện tử và phối hợp thu ngân sách, với doanh số khoảng 2.700 tỷ đồng (chủ yếu thu ngân sách). Ngày cao điểm lên đến 30.000 lệnh đi, với doanh số 3.000 tỷ đồng và 100.000 lệnh đến qua thanh toán song phương điện tử và phối hợp thu ngân sách với doanh số 7.500 tỷ đồng.

Hệ thống thanh toán song phương điện tử và phối hợp thu ngân sách được triển khai thành công đã góp phần quan trọng để KBNN và các ngân hàng thương mại tiếp tục thực hiện có hiệu quả cải cách TTHC trong công tác phối hợp thu ngân sách, cụ thể như:

- Việc điện tử hóa giao dịch thanh toán, sử dụng chữ ký số và thanh toán trực tuyến liên tục theo mỗi giao dịch thu, chi ngân sách nói riêng và các giao dịch thanh toán của KBNN nói chung đã thay thế hoàn toàn phương thức thanh toán thủ công bằng chứng từ giấy theo phiên bản trước đây giữa KBNN cấp huyện và các ngân hàng thương mại, đảm bảo nhanh hơn, chính xác và an toàn hơn; làm giảm đáng kể lao động thủ công trong các khâu của công tác kế toán, thanh toán của KBNN và các ngân hàng thương mại. Qua đó, góp phần tập trung kịp thời, đầy đủ các khoản thu ngân sách, đáp ứng nhanh, chính xác các khoản chi của ngân sách và các đơn vị sử dụng ngân sách; nâng cao hiệu quả quản lý quỹ ngân sách.

Qua hệ thống thanh toán song phương điện tử và phối hợp thu ngân sách, việc điện tử hóa hoàn toàn giao dịch thanh toán, đảm bảo kịp thời, an toàn và chính xác giữa các ngân hàng thương mại và KBNN đã tạo điều kiện thuận lợi về kỹ thuật, nghiệp vụ để KBNN và các ngân hàng thương mại đảm bảo triển khai có hiệu quả các quan điểm, yêu cầu về cải cách TTHC trong công tác thu ngân sách.

- Từ kết quả trên, KBNN tiếp tục phối hợp với các ngân hàng thương mại đảm bảo các điều kiện tổ chức, kỹ thuật và nghiệp vụ để quản lý vận hành có hiệu quả hệ thống thanh toán song phương điện tử và phối hợp thu ngân sách, duy trì sự thành công lâu dài của dự án. Đồng thời, triển khai quy trình đối với các KBNN tỉnh, thành phố còn lại mở tài khoản chuyên thu tại ngân hàng thương mại.

Hiện nay, KBNN đang tiếp tục phối hợp với các ngân hàng thương mại để triển khai, thực hiện quy trình quản lý, thanh toán ngoại tệ theo quy trình thanh toán song phương điện tử và phối hợp thu ngân sách (như quy trình đối với đồng Việt Nam đã triển khai thành công).

Đối với hệ thống KBNN có thể thấy việc triển khai thực hiện thanh toán song phương điện tử là bước tiến đáng kể của KBNN trong quá trình cải cách TTHC, nâng cao chất lượng hoạt động cũng như tạo điều kiện thuận lợi tối đã cho người dân, DN trong quá trình hoạt động.

Đối với lĩnh vực chứng khoán

Để thực hiện hiện đại hóa công tác cải cách hành chính nói chung cũng như cải cách TTHC nói riêng trong lĩnh vực chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) tiếp tục triển khai và khai thác thông tin, dữ liệu từ các phần mềm ứng dụng công nghệ thông tin như: Hệ thống giám sát thị trường (MSS), Hệ thống công bố thông tin điện tử (IDS), Hệ thống Cơ sở dữ liệu (CSDL) quản lý công ty chứng khoán, Hệ thống CSDL quản lý công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư, Hệ thống CSDL người hành nghề chứng khoán. Cụ thể như:

- Hệ thống MSS đi vào hoạt động trở thành một công cụ hỗ trợ tích cực trong công tác giám sát giao dịch, giúp kịp thời phát hiện các dấu hiện giao dịch bất thường, xây dựng hệ thống báo cáo, cảnh báo sớm nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm, kịp thời các hành vi vi phạm, tăng cường bảo vệ các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Hệ thống MSS đã giúp sớm đưa ra các phân tích về giao dịch chứng khoán trên thị trường, hỗ trợ quản lý và giám sát giao dịch chứng khoán trên thị trường phù hợp với yêu cầu hoạt động và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, ngày càng tiếp cận với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, việc sử dụng Hệ thống MSS giúp hoạt động quản lý, trao đổi thông tin dữ liệu giữa UBCKNN và 02 Sở Giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán được nhanh chóng, dễ dàng và tiết kiệm chi phí...

- Hệ thống Công bố thông tin (IDS) được xây dựng nhằm hỗ trợ các công ty đại chúng trong thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin trên thị trường, giúp các công ty giảm tải khó khăn, tiết kiệm chi phí in ấn, chuyển phát và tránh sự chậm trễ trong việc công bố thông tin và báo cáo định kỳ, bất thường theo quy định pháp luật; đặc biệt phù hợp và đáp ứng kịp thời yêu cầu công bố thông tin bất thường trong vòng 24 giờ. Theo đó, các công ty có thể thực hiện gửi báo cáo, thông tin công bố và các tài liệu kèm theo thông qua hình thức điện tử. Thông tin, Báo cáo, tài liệu sau khi được UBCKNN phê duyệt sẽ tự động được công bố trên Cổng thông tin điện tử của UBCKNN. Ngoài ra, hệ thống IDS đã tạo lập cơ sở dữ liệu về các công ty đại chúng, chức năng tổng hợp báo cáo đầu ra phục vụ công tác thống kê, báo cáo Lãnh đạo. Qua đó hỗ trợ UBCKNN trong công tác quản lý và ban hành chính sách phù hợp trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Năm 2014, UBCKNN tiếp tục thực hiện cấp tài khoản sử dụng IDS cho 327 công ty đại chúng, đến nay đã có 1.323 công ty đại chúng được cấp tài khoản sử dụng Hệ thống IDS.

- Hệ thống cơ sở dữ liệu Quản lý công ty chứng khoán (SCMS) nhằm phục vụ và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thông tin tập trung và gửi dữ liệu báo cáo của các công ty chứng khoán. Thông qua hệ thống này, các công ty có thể công bố thông tin và gửi báo cáo cho UBCKNN theo quy định của pháp luật một cách nhanh chóng, chính xác, hiệu quả, giảm thiểu chi phí. Bên cạnh đó, hệ thống SCMS giúp nhanh chóng tiếp cận thông tin, dữ liệu báo cáo của các đối tượng phải công bố thông tin và nâng cao công tác giám sát về báo cáo và công bố thông tin. Năm 2014, UBCKNN đã triển khai đưa vào sử dụng Hệ thống cơ sở dữ liệu công ty chứng khoán - SCMS; đồng thời, xây dựng Quy chế sử dụng SCMS, đăng ký cấp tài khoản, tiếp nhận và cấp tài khoản cho 81 công ty chứng khoán, hỗ trợ kỹ thuật cho công ty chứng khoán sử dụng Hệ thống SCMS.

- Hệ thống cơ sở dữ liệu Quản lý công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán (FMS) phục vụ và nâng cao hiệu quả quản lý thông tin tập trung và gửi báo cáo của các tổ chức như công ty quản lý quỹ; ngân hàng lưu ký/ngân hàng giám sát; văn phòng đại diện của công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam. Theo đó, các công ty, ngân hàng có thể công bố thông tin và gửi báo cáo cho UBCKNN theo quy định của pháp luật một cách thuận tiện, chính xác, giảm thiểu thủ tục hành chính và chi phí. Bên cạnh đó, hệ thống FMS hỗ trợ UBCKNN nhanh chóng tiếp cận thông tin, dữ liệu báo cáo của các công ty, giúp công tác thống kê, tổng hợp được nhanh chóng, chính xác và nâng cao công tác quản lý giám sát thị trường. Việc triển khai đưa Hệ thống FMS vào hoạt động nằm trong công tác cải cách TTHC trong hoạt động quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quản lý quỹ, thể hiện sự nỗ lực trong thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát thị trường, đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững của thị trường chứng khoán, phù hợp với yêu cầu hoạt động và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng tiếp cận với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.