Những bước chuyển lớn trong điều hành Ngân sách Nhà nước

VỤ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Trải qua 70 năm xây dựng và trưởng thành của ngành Tài chính, ngân sách nhà nước luôn thể hiện rõ vai trò trung tâm, là công cụ để Đảng và Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy quá trình bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước đều có những bước chuyển lớn trong công tác điều hành ngân sách nhà nước.

 Tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước chặt chẽ, triệt để tiết kiệm, có hiệu quả.
Tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước chặt chẽ, triệt để tiết kiệm, có hiệu quả.

Giữ vững “nguyên tắc vàng”

Để có một nền tài chính quốc gia lành mạnh và minh bạch, việc đảm bảo cân bằng thu - chi ngân sách nhà nước là “nguyên tắc vàng” không chỉ riêng Việt Nam mà các nước trên thế giới đều hướng tới. Trải qua 70 năm xây dựng và trưởng thành của ngành Tài chính, ngân sách nhà nước luôn thể hiện rõ vai trò trung tâm, là công cụ để Đảng và Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy quá trình bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước đều có những bước chuyển lớn trong công tác điều hành ngân sách nhà nước. Trước giai đoạn đổi mới, xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, lại chịu hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh giải phóng, cùng với sự bao vây, cấm vận của Mỹ và sự phá hoại của các thế lực thù địch, đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước bị mất cân đối nghiêm trọng. Thu ngân sách luôn thấp hơn rất nhiều so với nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng do bao cấp tràn lan (giai đoạn 1976-1980 chi tiêu dùng chiếm bình quân 55,2% tổng chi ngân sách nhà nước, giai đoạn 1981-1985 tăng lên 64,7% tổng chi ngân sách nhà nước).

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tháng 12/1986 đã mở ra một thời kỳ mới, với những chương trình cải cách kinh tế sâu rộng và toàn diện. Nền kinh tế đã chuyển dần từ mô hình tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước phù hợp với đặc điểm của Việt Nam. Sau 10 năm đổi mới, cùng với đà tăng trưởng cao của nền kinh tế (GDP 1986-1996 bình quân tăng 6,56%/năm), tỷ lệ động viên từ thuế, phí đã tăng từ mức 14% GDP năm 1986 lên mức 21,1% năm 1996. Từ đó, đã tăng nguồn lực cho Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, tài chính ngân sách từng bước thoát khỏi tình trạng phụ thuộc, có tích lũy cho đầu tư cơ sở hạ tầng và giải quyết các vấn đề xã hội. Chi đầu tư phát triển trong thời kỳ này được ưu tiên trong bố trí chi ngân sách nhà nước để kích thích nền kinh tế phát triển, hình thành cơ cấu kinh tế mới, hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà Chính phủ đã hoạch định thông qua các hoạt động như: Sử dụng vốn ngân sách nhà nước để đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông, thuỷ lợi… là những lĩnh vực rất cần cho sự phát triển kinh tế - xã hội nhưng tư nhân không muốn đầu tư (do tỷ suất lợi nhuận thấp, thời gian hoàn vốn chậm) hoặc chưa đủ khả năng (về vốn và trình độ) để đầu tư… Qua đó, đã động viên thu hút được các thành phần kinh tế tham gia bỏ vốn đầu tư, góp phần tăng nhanh đầu tư toàn xã hội.

Trong những năm tiếp theo, kinh tế đất nước phải đối mặt với những khó khăn, thách thức rất lớn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực, thế giới. Chính phủ đã sử dụng chính sách tài khóa kết hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ để ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tạo điều kiện thuận lợi phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng. Trong phạm vi chức năng của mình, Bộ Tài chính đã trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ quyết định chính sách tài khóa 5 năm và hàng năm phù hợp với yêu cầu thực tiễn, hướng tới mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.

Từ cuối năm 2007 đầu năm 2008, kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái trầm trọng, tác động tiêu cực tới kinh tế trong nước, làm suy giảm tốc độ tăng trưởng. Trước tình hình đó, Bộ Tài chính đã báo cáo các cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh chính sách tài khóa từ thắt chặt sang nới lỏng có điều kiện để giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp và tổ chức kinh tế; kích thích sản xuất - kinh doanh phát triển; trong đó, đã thực hiện đồng bộ các giải pháp: Ưu đãi thuế (miễn, giảm, giãn thuế và phí, lệ phí) cho một số đối tượng nộp thuế để ổn định sản xuất - kinh doanh, tăng sức mua xã hội; bổ sung thêm vốn đầu tư cho nền kinh tế để phát triển các công trình hạ tầng kinh tế- xã hội, hỗ trợ lãi suất vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để giúp các doanh nghiệp duy trì hoạt động... Đến năm 2010, nền kinh tế đã dần phục hồi, nhiệm vụ tài chính – ngân sách nhà nước năm 2010 đạt cao hơn dự toán, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và góp phần giảm bội chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, từ cuối năm 2010 và năm 2011, tình hình kinh tế có diễn biến phức tạp trở lại, đặc biệt là áp lực lạm phát tăng cao, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ điều chỉnh chính sách tài khóa theo hướng chặt chẽ hơn, phối hợp nhịp nhàng với chính sách tiền tệ góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

Các nguồn lực tài chính quốc gia được huy động, phân bổ và quản lý chặt chẽ, tiết kiệm, có hiệu quả, đảm bảo an ninh tài chính, góp phần tích cực nâng cao ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa lạm phát cao, thúc đẩy tăng trưởng hợp lý; đảm bảo quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội.

Những năm tiếp theo, từ 2012 đến 2014, lạm phát được kiểm soát nhưng tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu chững lại, hoạt động sản xuất - kinh doanh gặp khó khăn. Một lần nữa, chính sách tài khóa được điều chỉnh theo hướng tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, trong đó thực hiện miễn, giảm, gia hạn một số khoản thu ngân sách nhà nước đối với một số loại hình doanh nghiệp và lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, đẩy nhanh việc thực hiện, giải ngân vốn đầu tư với các dự án, chương trình, kết hợp với việc tăng mức huy động trái phiếu chính phủ cho đầu tư để kích thích đầu tư. Tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước chặt chẽ, triệt để tiết kiệm, có hiệu quả ngay từ khâu phân bổ dự toán và trong quá trình điều hành ngân sách. Cùng với đó, đã đẩy mạnh công tác thanh tra tài chính – ngân sách, thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước và tài sản công; qua đó, góp phần duy trì đà tăng trưởng hợp lý của nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô.

Kịp thời tham mưu và đề xuất giải pháp phù hợp

2015 là năm cuối cùng thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015; là năm thứ 5 thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược tài chính 10 năm 2011-2020 đây cũng là năm tạo tiền đề thực hiện kế hoạch 2016-2020; đồng thời, là năm tổ chức Đại hội Đảng các cấp để tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và kỷ niệm nhiều ngày lễ lớn cấp quốc gia. Trong bối cảnh cân đối ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn, áp lực trả nợ ngắn hạn ngày càng tăng, nợ công tăng sát trần cho phép, Bộ Tài chính xác định mục tiêu ngân sách nhà nước năm 2015 là huy động, phân phối, quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính quốc gia, từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà nước, đảm bảo an ninh tài chính; góp phần tích cực giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững và tăng trưởng hợp lý, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, quốc phòng - an ninh trong tình hình mới.

Để thực hiện mục tiêu này, Bộ Tài chính trình Chính phủ, Quốc hội thông qua dự toán ngân sách nhà nước năm 2015, trong đó: Dự toán thu ngân sách nhà nước nước được xây dựng tích cực, dự toán chi ngân sách nhà nước bố trí trên nguyên tắc chặt chẽ, triệt để tiết kiệm, cắt giảm tối đa kinh phí tổ chức hội nghị hội thảo, chi công tác nước ngoài, chi lễ hội, lễ kỷ niệm, lễ khởi công, khánh thành; không mua xe công (trừ xe chuyên dùng theo quy định của pháp luật)...; đồng thời, tiếp tục cơ cấu lại ngân sách, rà soát, xác định thứ tự ưu tiên để bố trí có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với khả năng nguồn lực; bội chi ngân sách nhà nước là 5,0% GDP, thấp hơn so với năm 2014 (5,3% GDP).

Trong tổ chức thực hiện, để chủ động điều hành ngân sách nhà nước trong điều kiện giá dầu giảm mạnh, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường quản lý chi tiêu chặt chẽ, tiết kiệm, điều hành sử dụng dự phòng ngân sách các cấp trong phạm vi 50% dự toán, dành nguồn để chủ động xử lý mất cân đối ngân sách trong trường hợp thu ngân sách giảm lớn... Nhờ đó, các nhiệm vụ thu - chi ngân sách nhìn chung được đảm bảo theo dự toán và tiến độ triển khai thực hiện nhiệm vụ của các chủ đầu tư, đơn vị sử dụng ngân sách, đảm bảo an sinh xã hội. Thu ngân sách nhà nước thực hiện 7 tháng đầu năm 2015 ước đạt 545 nghìn tỷ đồng, bằng 60% dự toán, tăng 6,6% so cùng kỳ năm 2014. Chi ngân sách nhà nước thực hiện 7 tháng ước đạt 645 nghìn tỷ đồng, bằng 56,3% dự toán, tăng 8,1% so cùng kỳ năm 2014. Về cân đối ngân sách nhà nước: Bội chi ngân sách nhà nước 7 tháng ước 100,68 nghìn tỷ đồng, xấp xỉ 44,5% dự toán năm. Tính đến hết tháng 6, đã thực hiện phát hành gần 100 nghìn tỷ đồng trái phiếu chính phủ để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển.

Nhằm đáp ứng các yêu cầu mới đặt ra trong quá trình tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Vụ Ngân sách Nhà nước được Bộ Tài chính giao chủ trì, phối hợp với các đơn vị trong và ngoài Bộ Tài chính, các địa phương tổ chức đánh giá, tổng kết tình hình thực hiện Luật Ngân sách nhà nước, trên cơ sở đó xây dựng Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) để trình Chính phủ, trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII; trong đó, tăng cường phân cấp quản lý ngân sách; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao tính minh bạch, dân chủ và công khai trong công tác quản lý ngân sách nhà nước; kiểm soát chặt chẽ hoạt động thu, chi ngân sách; tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong quản lý tài chính – ngân sách nhà nước bảo đảm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng; tăng cường giám sát, quản lý nợ công đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) cũng tiếp thu những kinh nghiệm quốc tế về quản lý ngân sách nhà nước, vận dụng phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, bảo đảm công tác quản lý ngân sách nhà nước từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế.

Như vậy, có thể nhận định rằng, trong những hoàn cảnh phát triển cụ thể của nền kinh tế, Bộ Tài chính đã có những giải pháp phù hợp trong thực hiện chính sách tài chính – ngân sách nhà nước. Các nguồn lực tài chính quốc gia được huy động, phân bổ và quản lý chặt chẽ, tiết kiệm, có hiệu quả, đảm bảo an ninh tài chính, góp phần tích cực nâng cao ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa lạm phát cao, thúc đẩy tăng trưởng hợp lý; đảm bảo quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội. Cơ cấu chi theo đó cũng thay đổi tích cực theo hướng tăng chi cho con người, thực hiện cải cách tiền lương và các chính sách an sinh xã hội, tăng cường đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc khó khăn, thực hiện mục tiêu giảm nghèo; giảm bội chi ngân sách nhà nước; đảm bảo an ninh quốc phòng và tăng cường an ninh tài chính quốc gia... Cơ chế phân bổ ngân sách ngày công khai, minh bạch. Công tác quản lý tài chính ngân sách có nhiều chuyển biến theo hướng tăng cường phân cấp, tăng trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý chi tiêu, thực hành tiết kiệm, đề cao kỷ cương, kỷ luật tài chính- ngân sách, nâng cao hiệu quả chi ngân sách.

Phát huy truyền thống 70 năm thành lập ngành Tài chính, với bề dày thành tích và phát triển, Bộ Tài chính luôn hướng tới mục tiêu tiếp tục cân đối ngân sách nhà nước ngày càng vững chắc, huy động từ thuế, phí ở mức hợp lý, vừa tạo tích lũy và tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp, vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước; thực hiện cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước theo hướng điều chỉnh giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên, tăng dần tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi ngân sách nhà nước với lộ trình phù hợp, đảm bảo chi trả nợ, giảm dần bội chi ngân sách nhà nước, cơ cấu các khoản nợ đảm bảo nợ công trong giới hạn an toàn.

Bộ Tài chính luôn hướng tới mục tiêu tiếp tục cân đối ngân sách nhà nước ngày càng vững chắc, huy động từ thuế, phí ở mức hợp lý, vừa tạo tích lũy và tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp, vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước; thực hiện cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước, đảm bảo chi trả nợ, giảm dần bội chi ngân sách nhà nước, cơ cấu các khoản nợ đảm bảo nợ công trong giới hạn an toàn.