Tài chính Việt Nam: Những dấu ấn thời kỳ hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH

Từ năm 2001 đến nay, nền tài chính Việt Nam bước vào thời kỳ tăng cường hội nhập và hiện đại hóa, phát triển đa ngành, đa lĩnh vực. Đây cũng là giai đoạn ngành Tài chính tập trung nhiều nỗ lực cải cách thể chế phù hợp với yêu cầu chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng các cam kết hội nhập; đồng thời triển khai các nhiệm vụ tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu.

Ngành Tài chính luôn chủ động hội nhập quốc tế toàn diện.
Ngành Tài chính luôn chủ động hội nhập quốc tế toàn diện.

Tài chính đồng hành với sự chuyển đổi của nền kinh tế

Thể chế tài chính Việt Nam đã được hoàn thiện theo hướng tập trung tháo gỡ các rào cản về cơ chế, chính sách để huy động, phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; hình thành một môi trường đầu tư thống nhất, công bằng, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế. Cùng với sự gia tăng tiềm lực kinh tế, tiềm lực tài chính quốc gia cũng không ngừng được mở rộng và tăng cường ở cả ba cấp độ: tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp (DN), tài chính dân cư. Nhờ đó, an ninh tài chính quốc gia được đảm bảo, cân đối ngân sách tích cực, ứng phó kịp thời và linh hoạt với những biến động của kinh tế, tài chính thế giới.

Đầu những năm 2000, trong bối cảnh kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục bị ảnh hưởng bởi tác động của khủng hoảng tài chính châu Á 1997 - 1998, chính sách tài chính được đổi mới, công cụ tài chính được đa dạng hóa nhằm huy động mọi nguồn lực phát triển kinh tế. Giai đoạn 2006 - 2010, chính sách tài chính được xây dựng và điều chỉnh phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế - tài chính quốc tế, nổi bật là Việt Nam trở thành thành viên của WTO năm 2007; đồng thời tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, ứng phó với tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính - kinh tế thế giới 2008 - 2009.

Giai đoạn 2011 - 2015, trong bối cảnh kinh tế, tài chính thế giới biến động liên tục, đa chiều, nhiều chính sách, giải pháp tài chính tháo gỡ khó khăn cho DN, hỗ trợ thị trường tiếp tục được ban hành và thực hiện. Song hành với đó là những nỗ lực hoàn hiện thể chế, chính sách tài chính; quyết liệt cải cách hành chính gắn với tăng cường hiện đại hóa ngành Tài chính. Năm 2012, Chiến lược Tài chính đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ ban hành đã góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của đất nước.

Chiến lược Tài chính đến năm 2020 đã cập nhật được tinh thần của tái cấu trúc, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu… Đến năm 2013, hệ thống 9 chiến lược của Ngành cũng được phê duyệt đồng bộ. Tính đến hết năm 2014, một số chỉ tiêu đã đảm bảo hoặc vượt mục tiêu của Chiến lược Tài chính giai đoạn 2011 - 2015.

Huy động nguồn lực lớn cho đầu tư phát triển

Chính sách động viên ngân sách được thực hiện theo hướng đa dạng hóa các nguồn lực, tạo ra khối lượng vốn đầu tư lớn để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, cải cách thuế và quản lý thu ngân sách đã thể hiện tính tiên phong trong quá trình đổi mới. Hệ thống chính sách thuế đã trở thành công cụ quan trọng trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, bao quát hết các nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước (NSNN), đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và đảm bảo nguồn tài chính cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống thuế được xây dựng và điều chỉnh theo hướng hiện đại, hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế; góp phần tạo môi trường đầu tư ổn định, hấp dẫn và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giảm động viên vào ngân sách, tăng tích tụ vốn cho DN và nhà đầu tư.

Cải cách quản lý thu NSNN được đánh dấu bằng việc ban hành Luật NSNN (2002), hình thành khuôn khổ pháp lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc huy động nguồn lực tài chính. Đặc biệt, với việc phân cấp mạnh hơn giữa ngân sách trung ương (NSTW) và ngân sách địa phương (NSĐP) theo nguyên tắc NSTW có vai trò chủ đạo với các nguồn thu quan trọng và đảm nhận các khoản chi chủ yếu. Luật NSNN 2002 tạo ra bước đột phá trong việc lập, chấp hành và quản lý ngân sách, nâng cao vai trò và trách nhiệm, tạo chủ động cho các cấp chính quyền địa phương trong việc nuôi dưỡng và khai thác nguồn thu. Trước năm 2004 cả nước mới chỉ có 5 tỉnh, thành phố tự cân đối được ngân sách và có điều tiết về NSTW thì thời kỳ 2004 - 2007 đã có 15 địa phương, thời kỳ 2007 - 2010 là 11, sau đó tăng lên 13 địa phương trong giai đoạn 2011 - 2015.

Tổng thu NSNN bình quân giai đoạn 2001 - 2010 đạt 26,6% GDP (cao hơn mục tiêu 21 - 22% GDP trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010); giai đoạn 2011 - 2015 ước đạt khoảng 22 - 23% GDP (mục tiêu 23 - 24% GDP), tăng gấp 2 lần giai đoạn 2006 - 2010. Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN tăng từ 50,7% năm 2001 lên 58% giai đoạn 2006 - 2010 và đạt 67% giai đoạn 2011 - 2015, trong đó, nguồn thu từ sản xuất - kinh doanh tăng trưởng ở mức cao và góp phần quan trọng ổn định và tăng cường tính bền vững của NSNN.

Bên cạnh đó, việc khai thác các nguồn thu từ đất đai, tài nguyên, xổ số kiến thiết cũng có những đóng góp nhất định cho NSNN cũng như đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng... Huy động vốn từ khu vực ngoài nhà nước đã có bước phát triển mạnh. Tỷ trọng vốn đầu tư khu vực dân cư và tư nhân trong tổng đầu tư toàn xã hội bình quân cả giai đoạn 2001 - 2010 khoảng 33,6%, giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 38,49. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký ước đạt khoảng 250 tỷ USD, trong đó, tỷ trọng vốn FDI thực hiện trong tổng vốn đầu tư toàn xã bình quân giai đoạn 2001 - 2010 là 18,4%, giai đoạn 2011 - 2015 ước khoảng 22%, góp phần quan trọng phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Mặt khác, các nguồn huy động từ vay nợ và ODA cũng đã tăng cường nguồn lực cho đầu tư phát triển, qua đó, nhiều công trình quan trọng, thiết yếu về giao thông, điện, nước, thủy lợi, y tế, giáo dục… đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh và đảm bảo an sinh xã hội. Giai đoạn 2001 - 2015, cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam trên 76 tỷ USD vốn ODA, trong đó giải ngân được khoảng 46 tỷ USD.

Đổi mới, phân phối và sử dụng nguồn lực góp phần thúc đẩy tăng trưởng, xóa đói giảm nghèo

Chính sách chi ngân sách đã được đổi mới theo hướng giảm dần sự bao cấp của NSNN, đặc biệt là đối với các DNNN và các đơn vị sự nghiệp công. Nhà nước đã thực hiện tách bạch giữa hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động sản xuất - kinh doanh, giữa hoạt động quản lý hành chính và hoạt động sự nghiệp. Đối với các DNNN, áp dụng cơ chế tự hạch toán kinh doanh thay thế cho cơ chế bù lỗ, bù giá từ NSNN; chuyển đổi phương thức quản lý vốn nhà nước từ quản lý hành chính sang quan hệ đầu tư, kinh doanh vốn, góp phần tái cơ cấu vốn nhà nước để tập trung đầu tư vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Đối với các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, cơ chế khoán chi hành chính đã được thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý hành chính nhà nước và hỗ trợ quá trình tinh giản biên chế.

Đối với các đơn vị sự nghiệp, cơ chế tự chủ về tài chính, về bộ máy và nhân lực đã giảm dần sự bao cấp của NSNN, tạo động lực thúc đẩy việc đổi mới phương thức hoạt động nhằm cung ứng tốt hơn dịch vụ công cho xã hội, tạo tiền đề hình thành và phát triển thị trường các dịch vụ công. Phương thức chi từ ngân sách cho các đơn vị sự nghiệp được đổi mới theo hướng tăng cường thực hiện phương thức đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật; xây dựng giá dịch vụ công theo nguyên tắc thị trường.

Đáng chú ý, Luật NSNN 2002 với những đổi mới về chính sách chi, quy mô chi hàng năm đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đảm bảo an sinh xã hội và chi trả nợ... Tổng chi cân đối ngân sách 2010 đã tăng gấp 5 lần năm 2001 và gấp 2,4 lần năm 2005. Tổng chi NSNN bình quân giai đoạn 2011 - 2015 ước đạt 28,4% GDP.

Chi NSNN được cơ cấu lại theo hướng tập trung đầu tư cho phát triển bền vững, tập trung nhiều hơn cho đầu tư phát triển con người, tạo nền tảng cho phát triển bền vững. Đặc biệt, chi cho giáo dục - đào tạo tăng từ mức 15,8% tổng chi NSNN năm 2001 lên trên 20% năm 2007, sớm hơn 3 năm so với mục tiêu. Quy mô chi NSNN cho an sinh xã hội bình quân giai đoạn 2011 - 2015 tăng khoảng 18%/ năm, cao hơn tốc độ tăng thu và tăng chi NSNN.

Phát triển thị trường tài chính

Nhằm đa đạng hóa các nguồn lực cho đầu tư phát triển, khung khổ pháp lý đã tiếp tục được điều chỉnh phù hợp. Luật Chứng khoán ban hành năm 2006 và đã được bổ sung, sửa đổi năm 2010; Luật Kinh doanh bảo hiểm được ban hành năm 2000 và được sửa đổi, bổ sung năm 2010. Trên cơ sở đó Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn tạo ra hành lang pháp lý cho thị trường phát triển.

Sau 15 năm đi vào hoạt động, đến nay, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và hoàn thiện, từng bước trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quy mô TTCK tăng trưởng mạnh. Nếu như trong giai đoạn 2001 - 2005, vốn hóa TTCK mới chỉ đạt khoảng 1% GDP, thì đến năm 2006 đã tăng lên mức 23% GDP, đến năm 2010 đạt 44% GDP, năm 2014 ước đạt 32,24% GDP năm 2013. Tổng giá trị huy động vốn qua TTCK năm 2014 ước đạt 237 nghìn tỷ đồng, đóng góp 27,1% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2013, TTCK Việt Nam được đánh giá là 1 trong 10 nước có mức độ phục hồi mạnh nhất thế giới; riêng thị trường trái phiếu có mức tăng lớn nhất trong khu vực.

Thị trường bảo hiểm đã có bước phát triển đáng ghi nhận với nhiều loại hình DN bảo hiểm hoạt động trên các lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường năm 2014 ước đạt 54.718 tỷ đồng, tăng 14,89% so với năm 2013. Đầu tư trở lại nền kinh tế liên tục tăng và ước đạt 131.679 tỷ đồng trong năm 2014, chủ yếu được đầu tư vào các chương trình, dự án lớn của Nhà nước.

Giai đoạn 2001 - 2015 cũng là giai đoạn thúc đẩy sự phát triển thị trường dịch vụ kế toán - kiểm toán với việc luật hoá hoạt động cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán (theo Luật Kế toán năm 2003 và Luật Kiểm toán độc lập 2011), góp phần đáng kể trong việc tạo lập môi trường thông tin công khai, minh bạch thúc đẩy thương mại và đầu tư.

Tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành, quản lý giá theo cơ chế thị trường

Giai đoạn 2001 đến nay, cơ chế quản lý điều hành giá đã tiếp tục được hoàn thiện, nhất quán đi theo cơ chế giá thị trường có sự điều tiết vĩ mô theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường cạnh tranh về giá theo pháp luật, tạo động lực kích thích sản xuất phát triển. Nhờ đó, hệ thống giá tiếp tục từng bước cơ bản được hình thành theo tín hiệu khách quan của thị trường trong nước và thế giới. Cùng với việc Pháp lệnh Giá có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2002, cơ chế quản lý giá theo cơ chế kinh tế thị trường đã được khẳng định và việc phân cấp quản lý giá giữa Trung ương và địa phương, giữa các bộ, ngành về cơ bản được quy định cụ thể, rõ ràng, không chồng chéo. Hơn 10 năm sau, Luật Giá có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013 đã góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý cho công tác quản lý giá. Luật Giá có một ý nghĩa quản lý rất lớn và tác động đến hình thành nền kinh tế thị trường, là môi trường pháp lý góp phần để cộng đồng quốc tế công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.

Hội nhập quốc tế toàn diện

Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc đã tạo tiền đề quan trọng để hội nhập tài chính. Dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập là việc chính thức gia nhập WTO vào năm 2007. Trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam phải thay đổi rất nhiều các quy định về thuế, trong đó thuế xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng mạnh nhất. Cam kết cắt giảm thuế trong WTO được thực hiện theo lộ trình 12 năm (từ ngày 11/1/2007 đến 11/1/2019), theo đó thuế suất tính theo giá trị trung bình tại thời điểm gia nhập WTO là 17,5% và phải giảm xuống còn 11,4% vào năm 2019. Tuy nhiên, với nhiều nỗ lực thực hiện cam kết, đến năm 2014, ngoại trừ một số ít các mặt hàng nhạy cảm, về cơ bản, Việt Nam đã hoàn thành lộ trình cắt giảm thuế theo WTO.

Đến tháng 6/2015, Việt Nam đã ký kết 10 hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương và đang xúc tiến đàm phán và tiến tới ký kết 4 hiệp định quan trọng khác, trong đó có Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP). Với tinh thần chủ động, tăng cường hội nhập, Việt Nam đã từng bước nâng cao vị thế trên trường quốc tế.

Triển khai tái cơ cấu kinh tế

Thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020, Bộ Tài chính đã chủ trì, phối hợp triển khai tái cơ cấu một số lĩnh vực quan trọng.

Sau 3 năm triển khai Đề án “Tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 - 2015”, đến nay, thể chế quản lý DNNN tiếp tục được hoàn thiện, nhiều cơ chế, chính sách quản lý tài chính theo hướng nâng cao tính công khai, minh bạch, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Việc cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành nghề kinh doanh chính có chuyển biến tích cực, hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh của DNNN từng bước được cải thiện.

Triển khai Đề án “Tái cấu trúc TTCK và doanh nghiệp bảo hiểm”, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản liên quan trực tiếp đến tái cấu trúc, đồng thời tổ chức triển khai thực hiện lộ trình tái cấu trúc TTCK trên các phương diện tái cấu trúc cơ sở hàng hóa, tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư, tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán. Thông qua tái cấu trúc đã giảm số lượng và nâng cao chất lượng hoạt động của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ. Mức độ an toàn tài chính và hiệu quả hoạt động đầu tư của các DN bảo hiểm được nâng lên đáng kể.

Với các biện pháp quyết liệt tái cơ cấu đầu tư công, về cơ bản, cơ chế phân bổ vốn đầu tư được đổi mới theo hướng minh bạch hóa, thực hiện cân đối vốn đầu tư theo kế hoạch trung hạn; cơ chế phân cấp quản lý đầu tư tiếp tục được hoàn thiện. Chất lượng, hiệu quả đầu tư có dấu hiệu cải thiện. Các hình thức huy động vốn đã được đa dạng hóa để huy động tối đa nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

Tăng cường hiện đại hóa và cải cách hành chính

Hướng đến xây dựng một nền tài chính điện tử hiện đại, Bộ Tài chính đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) phục vụ công tác quản lý của Ngành cũng như phục vụ doanh nghiệp, người dân. Liên tiếp trong 2 năm 2013 - 2014, Bộ Tài chính luôn giữ vị trí thứ nhất trong khối các cơ quan bộ, ngành về chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông Việt Nam (Vietnam ICT index).

Các hệ thống thông tin quan trọng trong quá trình cải cách quản lý tài chính công đã được triển khai, bước đầu phát huy hiệu quả như: Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc (TABMIS), Hệ thống thông tin quản lý nợ (DMFAS), Hệ thống thông quan hàng hóa điện tử (VNACCS/VCIS), Cơ chế một cửa quốc gia, Hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS)...

Đến cuối năm 2014, hệ thống TABMIS đã được vận hành tại 63 tỉnh, thành phố, với tổng số gần 1.600 điểm, xử lý hàng chục nghìn giao dịch thu chi NSNN các cấp hàng ngày trên phạm vi toàn quốc. Hệ thống VNACCS/VCIS sau 1 năm vận hành (đến ngày 15/3/2015), đã phục vụ 53,2 nghìn DN tham gia; thực hiện 6,3 triệu tờ khai, tạo nền tảng để xây dựng thành công Cơ chế một cửa quốc gia, đem lại lợi ích lâu dài cho DN, nâng cao sức cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu hội nhập, phát triển.

Cùng với việc tăng cường hiện đại hóa, Bộ Tài chính tiếp tục tập trung cải cách thủ tục hành chính và đạt nhiều kết quả quan trọng. Từ ngày 01/9/2014, với việc đơn giản hóa mẫu biểu, nội dung kê khai thuế, bãi bỏ nhiều quy định về khai và tính thuế GTGT, giảm số lần kê khai và nộp thuế GTGT, thuế TNDN… thời gian kê khai, nộp thuế của doanh nghiệp đã giảm được 290 giờ, từ 537 giờ/năm xuống còn 247 giờ/năm và dự kiến sẽ còn tiếp tục giảm với việc thực thi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật thuế từ ngày 1/1/2015. Đến hết năm 2014, đã có 63/63 cục thuế và hơn 300 chi cục thuế trực thuộc triển khai hệ thống thuế qua mạng. Đến đầu tháng 6/2015, Bộ Tài chính đã triển khai dịch vụ nộp thuế điện tử cho 131.000 DN, phấn đấu đến 30/9/2015 đạt tối thiểu 90% DN nộp thuế diện tử.

Thông qua việc tiến hành rà soát, Tổng cục Hải quan kiến nghị đơn giản hóa nhiều thủ tục hành chính, đồng thời tăng cường hiện đại hóa. Cuối năm 2014, đã áp dụng thủ tục hải quan điện tử tại 100% các đơn vị hải quan trong toàn quốc, vượt mục tiêu đặt ra tại Chiến lược phát triển hải quan đến năm 2020.

Những kết quả tích cực đạt được trên chặng đường hội nhập và hiện đại hóa ngành Tài chính cho thấy sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự tâm huyết của các thế hệ lãnh đạo ngành Tài chính qua các thời kỳ, sức mạnh đoàn kết, ý chí phấn đấu không ngừng của lớp lớp cán bộ, nhân viên ngành Tài chính gìn giữ và phát huy nét son truyền thống của ngành.