Tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA

PV.

Việc sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài cho đầu tư phát triển trong những năm qua đã góp phần thay đổi diện mạo của đất nước, đặc biệt là đã góp phần làm thay đổi căn bản hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hộị. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay, Việt Nam cần có những giải pháp trọng tâm và căn bản để phát huy tính hiệu quả nguồn vốn này đối với nền kinh tế.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Thực trạng sử dụng nguồn vốn ODA giai đoạn 2005-2015

Trong thời gian qua, nguồn vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài được tập trung vào các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như: giao thông, cầu, cảng, hàng không, năng lượng, cấp thoát nước; môi trường, biến đổi khí hậu; vấn đề dân sinh, xóa đói, giảm nghèo... đã đạt nhiều kết quả tích cực.

Theo Bộ Tài chính cho biết, trong giai đoạn 10 năm trở lại đây (2005 – 2015), tổng số vốn ODA, vay ưu đãi được ký kết (khoảng 45 tỷ USD), cơ cấu sử dụng trong nước được phân chia như sau: 1/3 cho ngân sách trung ương để cấp phát cho các chương trình, dự án thuộc nhiệm vụ chi của Ngân sách trung ương; 1/3 dành cho các chương trình, dự án của địa phương; và 1/3 để cho vay lại các dự án trọng điểm của nhà nước.

Cụ thể là, trong tổng số vốn dành cho chương trình, dự án của địa phương, tỷ trọng vốn cấp phát chiếm 92,2%; cho vay lại chỉ chiếm 7,8%. Đối với phần vốn để cho vay lại các dự án đầu tư trọng điểm của nhà nước, cho đến nay hầu hết Chính phủ vẫn chịu toàn bộ các rủi ro tín dụng. Cơ quan cho vay lại chỉ có vai trò là ngân hàng phục vụ và hưởng phí dịch vụ.

Ông Trương Hùng Long – Cục trưởng Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại chia sẻ tạibuổi Họp báo chuyên đề về chính sách cho vay lại vốn ODA diễn ra sáng 22/3,bên cạnh các kết quả tích cực đạt được, có thể thấy cơ chế sử dụng vốn chủ yếu dựa vào cấp phát từ ngân sách nhà nước và Nhà nước chịu rủi ro toàn bộ như hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề bất cập như: Đầu tư dàn trải, chưa thực hiệu quả; tình trạng chậm tiến độ, tăng tổng mức đầu tư; Bất cập trong việc phân bổ nguồn vốn giữa các địa bàn; Việc duy trì cơ chế mang tính bao cấp từ phía Trung ương trong thời gian dài đã tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước, chưa thực sự khuyến khích các chủ đầu sử dụng vốn tiết kiệm, hiệu quả.

Mức độ ưu đãi từ các khoản cho vay của các đối tác phát triển dành cho Việt Nam đang giảm đi rõ rệt khi Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình từ năm 2010. Có thể Việt Nam sẽ không còn được vay theo điều kiện ODA và chủ yếu chuyển sang sử dụng nguồn vay ưu đãi, vay theo điều kiện thị trường từ tháng 7/2017.

Ông Trương Hùng Long nhấn mạnh, từ năm 2010, Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình. Mức độ ưu đãi của các khoản cho vay của các đối tác phát triển dành cho Việt Nam đang giảm rõ rệt. Giai đoạn trước năm 2010, thời hạn vay bình quân khoảng từ 30-40 năm, với chi phí vay khoảng 0,7-0,8%/năm, bao gồm thời gian ân hạn. Giai đoạn từ 2011-2015, thời hạn vay bình quân chỉ còn từ 10-25 năm, tùy theo từng đối tác và từng loại vay; với chi phí vay khoảng 2%/năm trở lên. Nhiều nhà tài trợ đã chuyển từ nguồn vốn ODA sang nguồn vốn vay hỗn hợp. Dự kiến đến tháng 7/2017 Việt Nam có thể không còn được vay theo điều kiện ODA, phải chuyển chủ yếu sang sử dụng nguồn vay ưu đãi và tiến tới vay theo điều kiện thị trường. Nguồn vốn ODA đã vay chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi hoặc tăng lãi suất lên từ 2% - 3,5%.

Tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA

Trước những thách thức và yêu cầu đó, Bộ Tài chính đề xuất một số giải pháp cụ thể và trọng tâm để phát huy hơn nữa hiệu quả nguồn vốn ODA trong tình hình mới. Cụ thể là:

Một là: Nhà nước nên tập trung nguồn vốn ODA vào những lĩnh vực then chốt, các dự án công trình trọng điểm, thu hẹp phạm vi cấp phát từ Ngân sách nhà nước và giảm tính bao cấp của nhà nước trong cơ chế sử dụng vốn vay nước ngoài;

Hai là: Đối với các địa phương có tiềm lực tài chính khá, và đặc biệt các địa phương có khả năng điều tiết ngân sách về trung ương thì phải thì phải chia sẻ gánh nặng nợ với ngân sách trung ương thông qua cơ chế cho vay lại Chính quyền địa phương;

Ba là: Đối với các lĩnh vực, các dự án có khả năng hoàn vốn và có khả năng huy động từ các thành phần kinh tế thì phải chuyển dần sang cơ chế thị trường thông qua cơ chế cho vay chịu rủi ro. Về lâu dài sẽ thực hiện đúng theo cơ chế thị trường.

Bốn là: Phải tăng tính công khai minh bạch trong quản lý, sử dụng nguồn vốn vay công; tăng tính trách nhiệm của tất cả các chủ thể liên quan đến quản lý và sử dụng nguồn vốn vay.