Tăng thuế suất nhập khẩu mặt hàng thép nhằm hỗ trợ sản xuất trong nước

PV.

Vừa qua, Bộ Tài chính đã phát đi công văn xin ý kiến rộng rãi về việc điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu một số mặt hàng, trong đó có mặt hàng thép theo hướng điều chỉnh tăng thuế suất thuế nhập khẩu đối với mặt hàng này theo kiến nghị của Công ty Cổ phần Tập đoàn Tôn Hoa Sen.

Bộ Tài chính đã phát đi công văn xin ý kiến rộng rãi về việc điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu một số mặt hàng, trong đó có mặt hàng thép. Nguồn: internet
Bộ Tài chính đã phát đi công văn xin ý kiến rộng rãi về việc điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu một số mặt hàng, trong đó có mặt hàng thép. Nguồn: internet

Theo đó, Công ty Cổ phần Tập đoàn Tôn Hoa Sen đề nghị tăng thuế suất thuế nhập khẩu cho mã hàng 7210.41.11, nhóm 7210 (các sản phẩm sắt hoặc thép không hợp kim được cán phẳng, có chiều rộng từ 600mm trở lên, đã phủ, mạ hoặc tráng) từ 20% lên 25%; Tăng thuế suất nhập khẩu ưu đãi lên bằng mức trần cam kết WTO cho các mặt hàng có mã HS 7211.19.11, 7212.40.10, 7212.50.91, 7212.50.99 từ 0% lên 10%; Tăng thuế suất cho mặt hàng có mã HS 7212.40.90 từ 7% lên 10% do Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen đã sản xuất được và để đảm bảo nguyên tắc thuế suất của bán thành phẩm không cao hơn thuế suất thành phẩm.

Trước kiến nghị trên của Công ty Cổ phần Tập đoàn Tôn Hoa Sen, Bộ Tài chính cho rằng, đối với mã hàng 7210.41.11 – sản phẩm sắt hoặc thép không hợp kim được mạ hoặc tráng kẽm bằng phương pháp khác, dạng lượn sóng, có hàm lượng carbon dưới 0,6% tính theo trọng lượng, chiều dày không quá 1,2mm có mức thuế suất của hiện hành là 20% do trong nước đã sản xuất được.

Đồng thời, kim ngạch nhập khẩu năm 2015 của mã hàng này đạt 136 nghìn USD và năm 2016 không phát sinh kim ngạch nhập khẩu. Do vậy, Bộ Tài chính nhất trí với đề xuất của Công ty Cổ phần Tập đoàn Tôn Hoa Sen và dự kiến tăng thuế mã hàng 7210.41.11 từ 20% lên 25% để hỗ trợ sản xuất trong nước. Mức tăng này không ảnh hưởng đến số thu ngân sách nhà nước do không phát sinh kim ngạch nhập khẩu.

Đối với các mặt hàng có mã HS 7211.19.11, 7212.40.10, 7212.50.91, 7212.50.99,7212.40.90, theo Thông tư số 14/2015/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong nước đã sản xuất được các mặt hàng thép thuộc các mã hàng 7211.19.11, 7212.40.10,7212.40.90.

Kim ngạch nhập khẩu năm 2016 của các mã hàng trên như sau: Mã hàng 7211.19.11 đạt 2,7 triệu USD; Mã hàng 7212.40.10 đạt 3,3 triệu USD; Mã hàng 7212.40.90 đạt 373 ngàn USD nhập khẩu chủ yếu từ các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan. Các mã hàng này đều có thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN – Trung Quốc (ACFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJFTA) là 0%.

Bộ Tài chính cho biết, theo Danh mục Biểu thuế hài hòa ASEAN phiên bản 2017 (Danh mục AHTN 2017), mã hàng 7211.19.11 được tách thành các mã 7211.19.13, 7211.19.91; mã hàng 7212.40.10 được tách thành các mã 7212.40.11, 7212.40.91; mã hàng 7212.40.90 được tách thành các mã 7212.40.12, 7212.40.19, 7212.40.92, 7212.40.99.

Phần lớn các mã hàng này trong nước đã sản xuất được và được nhập khẩu từ các thị trường đã có thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt là 0%. Do vậy, Bộ Tài chính dự kiến tăng thuế suất các mã hàng  7211.19.13, 7211.19.91, 7212.40.11, 7212.40.91 từ 0% lên 10%, mã hàng 7212.40.12, 7212.40.19, 7212.40.92, 7212.40.99 từ 7% lên 10% nhằm hỗ trợ sản xuất trong nước.

Về tác động đối với thu ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính cho biết, lấy theo kim ngạch nhập khẩu có thuế năm 2016 làm cơ sở tính thì số thu về thuế nhập khẩu sẽ tăng 0,6 triệu USD/năm (6 triệu USD x 0.1 + 373 ngàn USD x 0,03) (tương đương khoảng 13,45 tỷ đồng).