Trung Quốc tiếp tục gia tăng căng thẳng bằng hành động vi phạm luật pháp quốc tế

Theo kinhtevadubao.com.vn

(Tài chính) Trước tình hình Trung Quốc làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông bằng các hành động vi phạm luật pháp quốc tế, 17 giờ chiều ngày 16/6, tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao đã tổ chức họp báo quốc tế lần thứ 5 về tình hình Biển Đông.

Trung Quốc tiếp tục gia tăng căng thẳng bằng hành động vi phạm luật pháp quốc tế
Đông đảo phóng viên trong nước và quốc tế đã đến đưa tin buổi họp báo. Nguồn: internet

Cuộc họp báo do ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia; ông Ngô Ngọc Thu, Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát Biển Việt Nam; ông Hà Lê, Phó Cục trưởng Cục Kiểm ngư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; ông Lê Hải Bình, Quyền Vụ trưởng Vụ Thông tin báo chí, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao và ông Nguyễn Quốc Thập, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam chủ trì.

Trung Quốc không có chủ quyền với Hoàng Sa

Tại buổi họp báo, ông Trần Duy Hải cho biết, mặc dù xâm phạm trắng trợn chủ quyền của Việt Nam nhưng thời gian qua, Trung Quốc tiếp tục gia tăng căng thẳng bằng hành động vi phạm luật pháp quốc tế. Trung Quốc lớn tiếng vu cáo Việt Nam chủ động đâm va vào các tàu hộ vệ của Trung Quốc trên thực địa, thậm chí nói tàu cá Việt Nam đâm chìm, trong khi thực tế là tàu Việt Nam bị tàu Trung Quốc đâm chìm.

 “Đây không chỉ là hành động vi phạm luật pháp quốc tế mà còn là hành động vô nhân đạo của Trung Quốc đối với ngư dân Việt Nam”, ông Hải khẳng định.

Ông Hải cũng khẳng định, các phát biểu của Trung Quốc xuyên tạc và bóp méo sự thật lịch sử.

“Việt Nam kiên quyết bác bỏ lập luận yêu sách chủ quyền của Trung Quốc với Hoàng Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa. Tư liệu lịch sử cho thấy, Trung Quốc không có chủ quyền với Hoàng Sa. Các tư liệu lịch sử của Trung Quốc diễn giải tùy tiện, là tài liệu của cá nhân không có cơ sở, mô tả thiếu nhất quán”, ông Hải nhấn mạnh.

Ông Hải cho biết: “Năm 1898, sau vụ tàu ngư dân bị đắm ở Hoàng Sa, Phó vương Trung Quốc cho rằng đảo Hoàng Sa là bỏ rơi không thuộc Trung Quốc. Các hòn đảo này không thuộc châu nào của Hải Nam, không có cơ quan nào chịu trách nhiệm hòn đảo này nên không chịu trách nhiệm vụ ngư dân Trung Quốc cướp tài sản”.

Trong khi đó, Việt Nam cung cấp bằng chứng nhà nước thiết lập chủ quyền với hòn đảo này kể từ thời phong kiến. Các hoạt động được ghi nhận trong các châu bản của triều đình phong kiến hiện đang được lưu giữ. Sau khi Pháp ký hiệp định bảo hộ năm 1874-1884, Pháp tuyên bố hoạt động xâm phạm, tiến hành nhiều biện pháp thực thi bảo vệ chủ quyền như xây dựng các công trình, trạm khí tượng, xây dựng cơ sở hành chính và sáp nhập vào Trung Kỳ, cấp giấy khai sinh cho công dân Việt Nam sinh tại Hoàng Sa.

“Việc quản lý hành chính với Hoàng Sa ở mức độ rất cao, có cơ quan hành chính ở Hoàng Sa và cấp giấy chứng sinh cho ngư dân Việt Nam sinh ra ở Hoàng Sa. Pháp nhiều lần phản đối hành động xâm phạm của Trung Quốc với Hoàng Sa, đề nghị Trung Quốc đưa vấn đề ra giải quyết trước cơ quan tài phán quốc tế. Vào ngày 18/2/1837, Pháp gửi công hàm tới Đại sứ quán Nhân dân Trung Hoa tại Pháp yêu cầu giải quyết hòa bình hữu nghị các bất đồng. Nếu Trung Quốc không đồng ý giải quyết qua thương lượng, thì đề nghị giải quyết vấn đề này bằng trọng tài. Pháp luôn luôn phản đối hành động, âm mưu của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa”, ông Hải cung cấp thêm thông tin.

Năm 1909, việc Đô đốc Quảng Đông tiến hành thám hiểm thăm dò Hoàng Sa là hành động vi phạm chủ quyền với Hoàng Sa được các triều đình phong kiến Việt Nam xác lập vững chắc và được Pháp thay mặt Việt Nam phản đối hành động vi phạm của Trung Quốc, được nhà nước An Nam xác lập năm 1816.

Năm 1946, chính quyền Tưởng Giới Thạch xâm phạm trái phép quần đảo Phú Lâm. 1947 Pháp ra tuyên bố phản đối sự xâm phạm này.

Các hội nghị quốc tế không giao Hoàng Sa cho Trung Quốc. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật Bản từ bỏ tất cả các lãnh thổ đã chiếm đóng trong đó có quần đảo Hoàng Sa. Các tuyên bố đã định kê các vùng lãnh thổ Nhật Bản phải nhường cho Trung Quốc, nhưng trong đó không có Hoàng Sa và Trường Sa.

Tại Hội nghị San Francisco năm 1951, đa số 45/51 phiếu thành viên tham gia hội nghị bỏ phiếu bác bỏ Hoàng Sa của Trung Quốc.

Tiếp đó, Trung Quốc đã 2 lần xâm chiếm trái phép Hoàng Sa. Năm 1956, Trung Quốc xâm chiếm nhóm đảo phía đông Hoàng Sa. Đây là lần đầu Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa phản đối mạnh mẽ sự xâm chiếm này.

Năm 1959, 1 nhóm binh lính Trung Quốc giả danh ngư dân đột kích nhóm đảo nhưng đã bị chính quyền Việt Nam cộng hòa đập tan.

“Cả 2 hành động diễn ra sau khi Việt Nam tái khẳng định chủ quyền tại Hội nghị San Francisco”, ông Hải chỉ rõ.

 “Tới năm 1974, lợi dụng chiến tranh, Trung Quốc tấn công giành kiểm soát Hoàng Sa từ chính quyền miền Nam Việt Nam. Hành động sử dụng vũ lực giành chủ quyền quốc gia khác là vi phạm luật pháp quốc tế, không tạo nên chủ quyền cho Trung Quốc.

Trung Quốc cố tình xuyên tạc, diễn giải sai khi viện dẫn Công thư Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 và các văn bản tài liệu sau năm 1975.

Tuy nhiên, Công thư Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập Hoàng Sa, đây là tài liệu thông báo của Chính phủ Việt Nam tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc chứ không đề cập vấn đề chủ quyền.

Năm 1976, Việt Nam đã nhất quán và kế thừa khẳng định chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.

“Các văn bản pháp lý của nhà nước phong kiến Việt Nam hiện còn lưu giữ như các châu bản khẳng định việc quản lý, khai thác Hoàng Sa là văn bản chính thức của Nhà nước nên có giá trị pháp lý. Theo luật pháp, 1 quốc gia khi muốn xác lập chủ quyền của mình với một vùng lãnh thổ phải thông qua thực thi chủ quyền dưới góc độ nhà nước. Việc khai phá Hoàng Sa, quần đảo Hoàng Sa được thực hiện bằng nhà nước và bởi nhà nước nên hoàn toàn đúng theo luật pháp. Tất cả các văn bản đó có giá trị pháp lý khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa”, ông Hải nhấn mạnh.

Trung Quốc tiếp tục bóp méo sự thật, vu cáo Việt Nam

Ông Trần Duy Hải cho biết, Việt Nam đã nỗ lực giải quyết tình hình căng thẳng trên Biển Đông, thông qua đàm phán và các biện pháp Hòa Bình, nhưng Trung Quốc đã phản ứng thiếu tính xây dựng.

Việt Nam đã nỗ lực liên lạc và đối thoại với Trung Quốc dưới nhiều hình thức, nhiều cấp để Trung Quốc chấm dứt các hành vi vi phạm, tạo điều kiện hai bên đàm phán, ổn định tình hình. Việt Nam tiến hành hơn 30 lần tiếp xúc với các cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc, nhưng Trung Quốc từ chối thiện chí của Việt Nam.

Hơn nữa, Trung Quốc còn bóp méo sự thật, vu cáo Việt Nam đâm va hơn 1.500 lần vào tàu Trung Quốc, mà không có một bằng chứng nào về cáo buộc này. Trong khi đó, Việt Nam có rất nhiều bằng chứng về hành động phi pháp, vô nhân đạo của Trung Quốc.

“Tình hình căng thẳng hiện nay do Trung Quốc đưa giàn khoan trái phép vào vùng biển Việt Nam, nhưng họ cho rằng, đó là hành động hợp pháp và khăng khăng không đàm phán, không rút giàn khoan. Vì vậy, Trung Quốc nói cánh cửa đàm phán vẫn rộng mở là không thực tế”, ông Hải cho hay.

Về tình hình thực địa, ông Ngô Ngọc Thu, Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, cho biết, ngày 27/5, giàn khoan di chuyển từ vị trí Tây Nam Tri Tôn 27 hải lý đến vị trí Đông Nam Tri Tôn 25 hải lý, đến nay đã ổn định tại vị trí mới và bắt đầu tác nghiệp. 

Vào ngày 15/6, Trung Quốc sử dụng 110 tàu bảo vệ giàn khoan Hải Dương 981, trong đó có 6 tàu chiến. Cụ thể, hai tàu hộ về tên lửa số hiệu 534, 535, các tàu tên lửa tấn công nhanh như 751, 756, 2 tàu hải giám, 34 tàu hải cảnh, tàu quét mình tàu kéo, tàu ngư chính, tàu cá các loại.

Ngày 15/6, hai lần máy bay KJ200, 9421 bay ba vòng và máy bay I12 bay 2 vòng trên các tàu của Việt Nam với độ cao từ 200 đến 300 m. Trung Quốc sử dụng 16 tàu gồm các tàu hải cảnh và hai tàu kéo ngăn cản các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam, như tàu Cảnh sát biển 4032, 4033, 8003 từ khu vực cánh giàn khoan từ 8,2 tới 10 hải lý.

Phương thức hoạt động của các tàu Trung Quốc từ đầu tháng 6 tới nay không thay đổi, sử dụng 10 -15 chiếc, tiến hành áp 2 bên mạn, chặn đầu, chặn đuôi các tàu thực thi pháp luật Việt Nam. Đồng thời, tàu Trung Quốc sẵn sàng sử dụng súng phun nước và đâm va các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam. Họ còn sử dụng máy phát tần số, rọi đèn pha, hú còi làm ảnh hưởng tâm lý tới các thuyền viên trên các tàu Việt Nam.

Lực lượng tàu cá Trung Quốc (40 đến 45 chiếc) luôn bám sát ngăn cản tàu cá Việt Nam từ 35 - 40 hải lý về phía tây tây nam giàn khoan Hải Dương 981, với sự hỗ trợ của các tàu hải cảnh Trung Quốc. Hiện nay, mặc dù thời tiết không tốt, các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam vẫn bám trụ hiện trường để đấu tranh với hành động phi pháp của Trung Quốc.

“Việt Nam cho đến nay vẫn nhất quán không sử dụng vũ lực, không đe dọa sử dụng vũ lực trên biển”, ông Thu khẳng định.

Ông Thu cũng bác bỏ thông tin Việt Nam sử dụng người nhái trên hiện trường khu vực giàn khoan. Về các vật trôi nổi và lưới mà Trung Quốc vớt được, chụp ảnh đưa về, ông Thu lý giải là do tàu Trung Quốc chủ động cắt lưới tàu ngư dân Việt Nam, ngư dân Việt cũng nhiều lần bị truy đuổi buộc phải bỏ lưới để chạy tránh.

Ngoài ra, còn có những vật dụng như thùng sơn, thùng dầu sơn dùng làm vật huấn luyện của lực lượng chấp pháp Việt Nam, bị vòi rồng phun văng xuống biển, Trung Quốc vớt và lại coi đó là bằng chứng chống lại Việt Nam.

Ông Hà Lê, Phó Cục trưởng Cục kiểm ngư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết thêm, Trung Quốc còn sử dụng các phương thức nhằm tạo tư liệu giả, vu cáo tàu Việt Nam đâm vào tàu Trung Quốc. Đến nay, chưa có bất kỳ trường hợp nào tàu Việt Nam chủ động đâm va tàu Trung Quốc như Trung Quốc vu cáo. Trong khi thực tế, 15 kiểm ngư viên Việt Nam bị thương vì tàu Trung Quốc đâm va.

Đến nay có 17 tàu cá của Việt Nam và hàng chục ngư dân bị thương do tàu Trung Quốc gây ra. Không những vậy, Trung Quốc còn ngang nhiên vu cho tàu Việt Nam đâm vào tàu Trung Quốc, ngăn cản tàu của nước này vào cứu hộ tàu cá của ngư dân Việt Nam.

Trung Quốc, thậm chí còn cho rằng, tàu cá Việt Nam đâm va vào tàu Trung Quốc nên chìm. Mặc dù trên thực tế chúng ta đều thấy, tàu Trung Quốc đã đâm chìm tàu Việt Nam", ông Hà Lê chỉ rõ.

Tại buổi họp báo, người phát ngôn Bộ Ngoại giao, ông Lê Hải Bình tái khẳng định Việt Nam có đầy đủ chứng lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam với khu vực. Gần đây Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động xây dựng ở một số bãi đá đã chiếm từ quần đảo Trường Sa. Việc này vi phạm Công ước Liên Hợp quốc về luật biển (UNCLOS), Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC). Việt Nam yêu cầu Trung Quốc dừng ngay các hoạt động mở rộng hoạt động ở khu vực./.

Đây không phải hành vi vi phạm lần đầu của Trung Quốc

Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Nguyễn Quốc Thập thông tin thêm rằng, năm 2003, giàn khoan của Trung Quốc đã định khoan ở lô 133D và bị phản ứng mạnh nên phải dừng hoạt động. Năm 2006, tàu Phấn Đấu 4 của Trung Quốc hoạt động gần khu vực đảo Lý Sơn và bị lực lượng chấp pháp của Việt Nam tiến hành ngăn chặn, xua đuổi. Năm 2007, nhà thầu của Công ty Western Pico đã đưa giàn khoan vào khu vực biển Việt Nam do Trung Quốc thuê song đã thất bại và phải rút lui. Lần thứ 8, năm 2010, Trung Quốc mời thầu với 9 lô dầu khí thuộc vùng biển của Việt Nam, nhưng vì phi chính nghĩa, không đơn vị nào bỏ thầu...