Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đến hoạt động đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam

Nguyễn Việt Anh - Giám đốc vận hành, Công ty TNHH Manabox Việt Nam, TP. Hà Nội, Việt Nam

Cơ chế thuế tối thiểu toàn cầu sẽ sớm được triển khai tại nhiều quốc gia. Về cơ bản, cơ chế thiết lập một tỷ lệ thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) tối thiểu 15% áp dụng cho một số các công ty đa quốc gia với quy mô lớn. Nếu cơ chế này được thực hiện, nền kinh tế Việt Nam sẽ chịu nhiều ảnh hưởng. Bài viết tóm tắt về những tác động của cơ chế thuế tối thiểu toàn cầu tới đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam và một số giải pháp cụ thể để Việt Nam ứng phó trước các tác động tiêu cực.

Để ứng ứng phó với thuế tối thiểu toàn cầu, tối đa hóa lợi ích từ đầu tư nước ngoài, Việt Nam cần cân nhắc về chiến lược cải cách hiệu quả và đồng bộ các giải pháp.
Để ứng ứng phó với thuế tối thiểu toàn cầu, tối đa hóa lợi ích từ đầu tư nước ngoài, Việt Nam cần cân nhắc về chiến lược cải cách hiệu quả và đồng bộ các giải pháp.

Tổng quan về việc áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu tại Việt Nam

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã khởi xướng Kế hoạch hành động về Chống xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận (BEPS - Base Erosion and Profit Shifting)” lần đầu tiên vào tháng 6/2013.

Để đảm bảo các giải pháp về BEPS được hoàn thiện và triển khai hiệu quả, OECD đã thiết lập một Diễn đàn hợp tác chung trên phạm vi toàn cầu (Inclusive Framework - IF). Tháng 7/2017, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 100 của IF.

Ngày 8/10/2021, Khung giải pháp Hai trụ cột để giải quyết các thách thức phát sinh từ nền kinh tế kỹ thuật số  được OECD đưa ra. Tính đến nay, 142/142 nước thành viên IF đã đồng thuận, trong đó có Việt Nam. Nếu như Trụ cột 1 đề cập tới quyền đánh thuế mới của Quốc gia đối với một phần lợi nhuận của công ty đa quốc gia (MNCs) có doanh thu toàn cầu hàng năm trên 20 tỷ Euro và lợi nhuận trên 10% thì Trụ cột 2 thiết lập Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu (GMT), cho phép các nước đầu tư nơi đặt trụ sở chính của công ty mẹ có quyền đánh thuế đối với thu nhập toàn cầu đến mức thuế suất 15% của các MNCs có doanh thu toàn cầu trên 750 triệu euro.

Có thể thấy, Trụ cột 2 trong Khung giải pháp về thuế tối thiểu toàn cầu thiết lập một mặt bằng thuế suất chung cho tất cả các quốc gia. Việc này nhằm mục đích hạn chế các nước áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập quá mức nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Dự kiến, thuế tối thiểu toàn cầu sẽ chính thức áp dụng vào năm 2024 tại nhiều quốc gia.

Như vậy, với Việt Nam, khi Trụ cột 2 này được áp dụng thì có thể khiến các MNCs đang lựa chọn đầu tư vào Việt Nam để hưởng thuế TNDN với thuế suất dưới 15% sẽ phải nộp phần chênh lệch tại nước nơi công ty mẹ đặt trụ sở chính, do đó làm giảm sức hấp dẫn đầu tư vào Việt Nam.

Để ứng phó trước tình hình này, ngày 04/8/2022, theo Quyết định số 55/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ thành lập Tổ công tác đặc biệt về nghiên cứu và đề xuất các giải pháp liên quan đến thuế suất tối thiểu toàn cầu của OECD. Tháng 2/2023, Bộ Tài chính đã thành lập Nhóm giúp việc của Tổ công tác này với thành phần gồm lãnh đạo của các đơn vị chức năng của Bộ Tài chính như Tổng cục Thuế, Vụ Chính sách Thuế…

Để triển khai chi tiết và kịp thời báo cáo tới các cấp có thẩm quyền, Tổng Cục Thuế đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn. Gần đây, tại Văn bản số 1444/TCT-CS ngày 21/4/2023 và Công văn số 1939/TCT-CS ngày 19/5/2023, Tổng cục Thuế làm rõ hơn một số nội dung về áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu ở Việt Nam.

(i) Đối tượng áp dụng: Tập đoàn với công ty mẹ tối cao (Ultimate Parent Entity – UPE)  từ 750 triệu Euro trở lên trong ít nhất 02 năm tính trong 04 năm tài chính ngay trước năm thực hiện. Các MNCs được loại trừ bao gồm Tổ chức của chính phủ nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức phi lợi nhuận, quỹ đầu tư hoặc quỹ hưu trí; Công ty thành viên với doanh thu trung bình dưới 10 triệu EUR và thu nhập trung bình hoặc lỗ dưới 1 triệu EUR; Thu nhập từ vận tải quốc tế.

(ii) Quy trình tính thuế bổ sung của các MNCs: Công văn hướng dẫn 05 bước, trong đó áp dụng tỷ lệ 8% giá trị Tài sản cố định hữu hình; 10% chi phí tiền lương để trừ khỏi thu nhập trước thuế khi tính thu nhập tính thuế bổ sung.

(iii) Nguồn số liệu làm cơ sở xác định và tính toán: Tổng cục Thuế hướng dẫn cụ thể về cơ sở xác định số liệu để tính toán thuế bổ sung của MNCs là từ Báo cáo tài chính, dữ liệu tờ khai quyết toán thuế TNDN…

Tác động của chính sách thuế tối thiểu toàn cầu tới đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam

Theo thống kê của Bộ Tài chính, tại Việt Nam, hiện có khoảng 36.500 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) với tổng số vốn đạt 435 tỷ USD, trong đó, Nhật Bản đứng thứ 3 về đầu tư vào Việt Nam. Năm 2022, tổng vốn đầu tư từ Nhật Bản đạt hơn 4,78 tỷ USD và tỷ lệ doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam có lãi là 59,5%.

Hết năm 2022, Nhật Bản có 4.978 dự án còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư hơn 68,89 tỷ USD, trong đó nhiều dự án quy mô lớn của các Tập đoàn hàng đầu của Nhật Bản như: Canon, Panasonic, Toyota, Honda, Yamaha, Suzuki, Mitsubishi… kéo theo nhiều doanh nghiệp vệ tinh. Như vậy, nếu tập đoàn điều chỉnh chính sách đầu tư thì các doanh nghiệp này cũng bị ảnh hưởng.

Ngày 16/12/2022, tại Nhật Bản, “Đề cương cải cách thuế năm tài chính 2023" (Japan's fiscal year 2023 tax reform proposals) được công bố và dự kiến sẽ có hiệu lực từ ngày 1/4/2024. Một trong các nội dung quan trọng được đề cập là việc thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu với việc áp dụng nguyên tắc Tổng hợp thu nhập chịu thuế tối thiểu (Income Inclusion Rule IIR) theo hướng dẫn của OECD.

Ước tính, hơn 800 MNCs sẽ phải chịu mức thuế tối thiểu tại Nhật Bản. Như vậy, thuế tối thiểu toàn cầu có thể có một số tác động như sau tới Việt Nam. Cụ thể:

Một là, thiết lập môi trường kinh doanh công bằng hơn.

Đây là một ảnh hưởng tích cực của chính sách vì sẽ giúp các MNCs tránh được sự cạnh tranh không lành mạnh từ  doanh nghiệp đến từ các quốc gia có mức thuế thấp hơn. Đồng thời, khoảng cách lợi thế về kinh nghiệm, quy mô, công nghệ, thị trường giữa nhóm doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp Nhật Bản có thể thu hẹp, đẩy mạnh sự cạnh tranh công bằng.

Hai là, giảm thiểu vấn đề chuyển giá của các tập đoàn.

Chính sách thuế tối thiểu tạo ra cơ hội cho Nhà nước Việt Nam công cụ để tăng nguồn thu thuế với các tập đoàn Nhật Bản lớn và hạn chế vấn đề chuyển giá khi các tập đoàn mặc dù có lãi ở Việt Nam thì vẫn tìm cách nâng cao chi phí đầu vào mua của công ty mẹ từ Nhật Bản (Chi phí nguyên liệu, vật tư, thiết bị, tài sản, dịch vụ, lãi vay…) để làm giảm lợi nhuận và khoản thuế phải đóng ở Việt Nam.

Ba là, vốn đầu tư từ Nhật Bản vào Việt Nam có thể suy giảm.

Thuế suất thuế TNDN phổ thông ở Việt Nam là 20%. Tuy nhiên, luật thuế quy định các ưu đãi về thuế suất (10%, 15%, 17%) và miễn, giảm 50% tiền thuế trong một giai đoạn. Theo thống kê, thuế suất áp dụng với các FDI khoảng 12,3%. Nhờ đó, Việt Nam đã trở thành một nơi đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư quốc tế, bao gồm các nhà đầu tư Nhật Bản.

Với thỏa thuận thuế tối thiểu toàn cầu, các doanh nghiệp này sẽ phải nộp phần thuế bổ sung về Nhật Bản, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn tài chính, kế hoạch kinh doanh, có thể cần tăng giá sản phẩm, giảm chi phí, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm… làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, từ đó tác động tiêu cực đến dòng vốn đầu tư từ Nhật Bản vào Việt Nam. 

Bốn là, tác động đến số thu ngân sách nhà nước.

Hệ quả của việc suy giảm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ tác động gián tiếp tới nguồn thu thuế đối với các doanh nghiệp FDI trong tương lai. Qua đánh giá của Tổng cục Thuế thì sẽ có khoảng hơn 1.000 FDI có công ty mẹ thuộc đối tượng áp dụng GMT. Trong số đó, các doanh nghiệp tối cao tại Nhật Bản chiếm khoảng hơn 30%.

Một số giải pháp đề xuất cho Việt Nam

Để ứng ứng phó với thuế tối thiểu toàn cầu, tối đa hóa lợi ích từ đầu tư nước ngoài, Việt Nam cần cân nhắc về chiến lược cải cách hiệu quả và đồng bộ một số nội dung sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh quá trình hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đảm bảo sự minh bạch, tiếp cận dễ dàng, bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Để đáp ứng yêu cầu này, Việt Nam cần sửa đổi pháp luật có liên quan và đặc biệt là pháp luật về thuế theo hướng đồng bộ với các pháp luật liên quan vì hiện nay, mặc dù liên tục thay đổi nhưng chính sách thuế vẫn còn nhiều vướng mắc bị các nhà đầu tư Nhật Bản phàn nàn khi chưa theo kịp với sự thay đổi các giao dịch kinh tế, chưa đồng bộ khi triển khai tại các địa phương.

Thứ hai, quy định về hình thức ưu đãi thuế nên được sửa đổi. Quy định mới cần giảm dần ưu đãi về miễn, giảm thuế để chuyển sang áp dụng hình thức ưu đãi thuế khác hiệu quả hơn như cho phép doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ một số khoản chi liên quan đến nghiên cứu phát triển (R&D), chi phí nhân sự chất lượng cao, chi phúc lợi cho nhân viên, chi khấu hao nhanh công nghê, thế hệ mới… hoặc được giảm trừ thu nhập, miễn giảm tiền thuế theo mức vốn đầu tư. Bên cạnh đó là các giải pháp về thuế khác như tăng mức miễn, giảm tiền thuê đất; miễn thuế thu nhập cá nhân đối với nhân lực chất lượng cao...

Thứ ba, cân nhắc áp dụng Quy định về “Thuế tối thiểu nội địa bổ sung đạt chuẩn/Qualified Domestic Minimum Top-up Tax” (“QDMTT”) theo nguyên tắc của OECD. Theo công thức tính toán của thuế tối thiểu toàn cầu, QDMTT được xác định bằng thuế suất bổ sung nhân với thu nhập tính thuế bổ sung (Lợi nhuận GloBE trừ đi các khoản loại trừ thu nhập dựa theo bản chất (Substance-based income exclusion - SBIE). Các khoản loại trừ này thường bao gồm chi phí lao động và hao mòn tài sản. Việc áp dụng quy định này có thể loại bỏ thuế bổ sung tại công ty mẹ tối cao. Bằng cách nội luật hóa QDMTT, Việt Nam sẽ giành được quyền thu với khoản thuế mà kể cả khi không áp dụng thì cũng bị thu bởi một quốc gia khác (Mặc dù Nhật Bản chưa triển khai quy định này trong nội luật)

Thứ tư, Việt Nam cần tiếp tục phát triển chuỗi cung ứng và hệ sinh thái kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp vệ tinh, công nghiệp hỗ trợ và chuỗi logistics để phát huy lợi thế trên tuyến hàng hải và hàng không. Đồng thời, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện cơ sở hạ tầng và năng lực xử lý hàng hóa để đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hóa trong giao dịch thương mại quốc tế.

Thứ năm, nâng cao trình độ nhân lực. Mặc dù nhân lực giá rẻ vẫn luôn cần thiết nhưng trong bối cảnh nền kinh tế số và tự động hóa được triển khai mạnh mẽ vào tất cả các chu trình kinh doanh thì nhân lực cần được đào tạo theo hướng nâng cao về chất lượng, đặc biệt là nhân sự quản lý cấp trung. Khi đó, bên cạnh lợi thế về chi phí nhân công hợp lý, Việt Nam sẽ trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư Nhật Bản khi có thể đảm nhận các công việc đòi hỏi trình độ cao hơn.

Thứ năm, tăng cường hợp tác và chia sẻ thông tin giữa các quốc gia nhằm kịp thời nắm bắt các thay đổi về chính sách, đặc biệt là chia sẻ thông tin, phối hợp hành động trong quản lý thuế.

Ngày 24/5/2023, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 14/CT-TTg về một số nhiệm vụ, giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài. Chỉ thị xác định rõ rằng lộ trình áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu vào năm 2024 tác động đến rất nhiều khía cạnh của nền kinh tế. Vì vậy, Việt Nam cần sớm hoàn thành đánh giá mức độ tác động cũng như có giải pháp kịp thời ứng phó với thuế tối thiểu toàn cầu.