Đánh giá tác động của đại dịch Covid-19 đến các doanh nghiệp Việt Nam

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 12/2020

Để các doanh nghiệp trong nước vượt qua giai đoạn khó khăn, Chính phủ cần thiết đưa ra nhiều biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp; đồng thời bản thân các doanh nghiệp cũng cần tự thay đổi mình, chủ động vượt qua khó khăn, thách thức đến từ diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Đánh giá tác động của dịch Covid-19 đến các doanh nghiệp Việt Nam

Tác động của dịch Covid-19 đến việc thành lập mới và tồn tại của doanh nghiệp

Do tác động của dịch bệnh Covid-19, tình hình sản xuất kinh doanh ở hầu hết các nhóm ngành đều gặp khó khăn, cùng với tâm lý e ngại, thận trọng của các nhà đầu tư khi dịch bệnh diễn biến phức tạp, nên số lượng doanh nghiệp (DN) thành lập mới giảm đáng kể.

Theo số liệu thống kê từ Cổng thông tin quốc gia về đăng ký DN (2020), trong 9 tháng đầu năm 2020, số DN đăng ký mới sụt giảm nghiêm trọng, giảm 3,2% so với cùng kỳ. Trong đó, lĩnh vực giảm mạnh mẽ nhất là nhóm DN hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật, vui chơi và giải trí (giảm 22,5% trong quý I/2020 so cùng kỳ 2019, tổng 9 tháng năm 2020 giảm 37,2% so cùng kỳ 2019); kinh doanh bất động sản 9 tháng đầu năm 2020 giảm 19,2% so cùng kỳ 2019 (quý I/2020 giảm 11,9% so cùng kỳ 2019); trong khi đó, các DN lĩnh vực hoạt động dịch vụ khác trong 9 tháng đầu năm 2020 có số lượng đăng ký mới giảm 32,1% so cùng kỳ 2019 (quý I/2020 giảm 12,2% so cùng kỳ 2019).

Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của dịch bệnh, nhiều DN phải ngừng kinh doanh hoặc giải thể. Số lượng DN đã hoàn thành xong thủ tục giải thể trong 9 tháng đầu năm 2020 là 12.089 DN. Phần lớn là DN hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống, lĩnh vực giáo dục và đào tạo, lĩnh vực dịch vụ việc làm và du lịch, kinh doanh bất động sản.

Tác động của dịch Covid-19 đến các hoạt động cụ thể của doanh nghiệp Việt Nam

Một số ngành có thể thấy ngay mức độ ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 như: Ngành dịch vụ, du lịch, nhà hàng, tuy nhiên một số ngành bị ảnh hưởng gián tiếp do thu nhập người dân giảm, giảm mua sắm như bất động sản, thời trang… Những DN có nguồn vốn lớn có thể cầm cự được nhưng với những DN nhỏ và siêu nhỏ, hộ kinh doanh nhỏ lẻ, nguồn vốn còn hạn chế thì đây là khó khăn lớn.

Đánh giá tác động của đại dịch Covid-19 đến các doanh nghiệp Việt Nam - Ảnh 1

Khi dịch Covid-19 xuất hiện ở Việt Nam, Tổng cục Thống kê đã tiến hành khảo sát các DN và kết quả cho thấy có tới 85,7% số DN được khảo sát chịu tác động bởi dịch Covid-19. Lĩnh vực công nghiệp - xây dựng và lĩnh vực dịch vụ chịu tác động đến 86,1% và 85,9% tổng số DN. Lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản chịu ảnh hưởng ít hơn với 78,7%.

Ngành Hàng không chịu tác động 100%, dịch vụ lưu trú 97,1%, dịch vụ ăn uống 95,5%, hoạt động của các đại lý du lịch 95,7%, giáo dục đào tạo 93,9%, dệt may, sản xuất da, các sản phẩm từ da, sản xuất các sản phẩm điện tử, sản xuất oto đều có tỷ lệ chịu tác động lên tới hơn 90% (Tổng cục Thống kê, 2020). Cụ thể:

Dịch Covid-19 tác động đến đầu vào nguyên vật liệu:

Nhiều lĩnh vực sản xuất của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên, nhiên liệu nhập khẩu, chủ yếu là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU... Khi dịch Covid-19 xảy ra, việc hạn chế đi lại, thông thương đã ảnh hưởng đến nguồn nguyên, vật liệu đầu vào của DN, bao gồm các DN sản xuất hoá chất nông nghiệp như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; các DN dệt may, da giầy, sản xuất giấy, sản phẩm từ gỗ, sản xuất kinh doanh thép; các DN khai khoáng xây dựng...

Các DN này thiếu hụt nguồn nguyên liệu đầu vào đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, hoàn thành các đơn hàng đã đặt trước, từ đó ảnh hưởng đến doanh thu và uy tín của DN.

Đánh giá tác động của đại dịch Covid-19 đến các doanh nghiệp Việt Nam - Ảnh 2

Dịch Covid-19 tác động đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ: 

Dịch Covid-19 xảy ra và nhanh chóng lan rộng trên toàn thế giới làm sức mua của nền kinh tế toàn cầu giảm, hoạt động giao thương hạn chế, dẫn đến việc giãn, huỷ, hoãn các đơn đặt hàng, gây sụt giảm kim ngạch xuất khẩu và làm giảm sản lượng, doanh thu của DN. Điều này ảnh hưởng đến nhiều DN ở nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau.

Lĩnh vực nông lâm nghiệp thuỷ sản:

Covid-19 hạn chế hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các DN trong lĩnh vực này. Trong quý I/2020 nhiều mặt hàng nông - thuỷ sản gặp khó khăn khi xuất khẩu ra các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU, ASEAN.

Nguyên nhân do lệnh phong toả, hạn chế đi lại, nhiều hợp đồng bị huỷ bỏ. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông lâm sản giảm 4,5%, thuỷ sản giảm 11,2% trong quý I/2020 so với cùng kỳ, trong đó có nhiều mặt hàng giảm mạnh như cao su (-26,1%), rau quả (-11,5%), cafe (-6,4%)... Từ giữa tháng 4/2020, nhiều quốc gia dần kiểm soát được dịch bệnh, từng bước mở cửa trở lại nền kinh tế cùng với các gói kích cầu cải thiện kim ngạch xuất khẩu.  

Với các DN dệt may, da giầy, sản xuất giấy, sản phẩm từ gỗ thì đầu ra cho sản phẩm chịu ảnh hưởng nghiêm trọng do sụt giảm nhu cầu tiêu dùng trong nước và quốc tế, nhất là từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU. Trong tháng 3/2020, nhiều DN của Mỹ, EU đã tuyên bố tạm ngừng nhận các đơn hàng dệt may, đồ gỗ từ Việt Nam. Các DN Hàn Quốc dù không tuyên bố chính thức nhưng cũng đã chủ động tạm ngừng các đơn hàng của các DN Việt Nam. Trong khi, các DN dệt may chuyển hướng sang sản xuất khẩu trang, đồ bảo hộ trong bối cảnh dịch bệnh bùng phát thì một số ngành khác như da giày vẫn chưa tìm được sản phẩm thay thế. 

Mặc dù vậy, do ảnh hưởng của dịch bệnh liên tiếp, tình hình sản xuất, xuất khẩu ngành Dệt may tiếp tục gặp nhiều khó khăn do thiếu hụt đơn hàng xuất khẩu. Nhiều DN dệt may gần như chưa có đơn hàng tiếp theo cho hai quý cuối năm 2020. So với 9 tháng đầu năm 2019, giá trị xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2020 của ngành Dệt may và giày dép đều giảm 1- 2% (Hình 4).

- Nhóm ngành dịch vụ như du lịch, vận tải, kho bãi, bán lẻ, tài chính ngân hàng bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, dịch vụ y tế, giáo dục và đào tạo chịu ảnh hưởng mạnh do biến động về tổng cầu. Ảnh hưởng mạnh mẽ nhất là ngành Du lịch (dịch vụ du lịch, lưu trú, ăn uống và lữ hành). Do dịch bệnh lan rộng, nhiều quốc gia thực hiện các biện pháp phong toả, hạn chế đi lại, tăng cường kiểm dịch nên nhu cầu du lịch xuyên biên giới sụt giảm. Nhu cầu du lịch trong nước cũng giảm do lo ngại dịch bệnh và do thu nhập của người dân giảm. Làn sóng dịch bệnh thứ 2 xảy ra với diễn biến phức tạp đã tiếp tục gây ảnh hưởng đến các DN. Doanh thu du lịch lữ hành 8 tháng năm 2020 ước tính đạt hơn 13.000 tỷ đồng, giảm 54,4% so với cùng kỳ năm trước (Tổng cục Thống kê).

Theo Hiệp hội DN Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), các DN ngành vận tải kho bãi cũng chịu tác động không nhỏ bởi dịch bệnh. Các đường bay trong nước, quốc tế đóng cửa, doanh thu ngành vận tải hàng không, đường sắt, đường bộ giảm mạnh.

Đánh giá tác động của đại dịch Covid-19 đến các doanh nghiệp Việt Nam - Ảnh 3

Lĩnh vực kinh doanh bất động sản cũng chịu ảnh hưởng mạnh của đại dịch Covid-19, trong đó có lĩnh vực cho thuê mặt bằng thương mại, văn phòng cho thuê, khách sạn, căn hộ. Nhân viên tại các sàn giao dịch bất động sản thiếu nguồn cung để chào hàng và cả nguồn cầu để giao dịch, dẫn đến không có doanh thu. Nhiều mặt bằng kinh doanh bị trả lại hoặc giảm giá thuê. Nhiều DN bất động sản lâm vào tình trạng phải tạm dừng hoạt động...

Dịch Covid-19 tác động đến dòng tiền của doanh nghiệp

Các DN chịu ảnh hưởng mạnh của đại dịch do gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm nên DN chịu căng thẳng về dòng tiền. Nhiều DN chỉ quan tâm đến các biện pháp cắt giảm dòng tiền chi ra trong bối cảnh doanh thu hạn chế.

Kết quả khảo sát của Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân cho thấy, có hơn 60% DN được khảo sát chịu ảnh hưởng giảm hơn 50% doanh thu, 28,9% DN chịu ảnh hưởng giảm từ 20-50% doanh thu (Báo cáo kết quả khảo sát lần 1 của Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân). Có đến 74% số DN trả lời khảo sát có nguy cơ phá sản do doanh thu không thể bù đắp chi phí hoạt động, chi lương cho người lao động, chi trả tiền lãi vay ngân hàng, chi phí thuê mặt bằng, các khoản thuế, phí... cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các chi phí khác. Đợt khảo sát lần thứ 3 của Ban nghiên cứu phát triển Kinh tế tư nhân vào tháng 8/2020 về những khó khăn mà DN phải đối mặt trong thời gian tới cho thấy, có tới 76% DN được khảo sát trả lời hiện nay không cân đối được thu chi, trong đó 54% có dòng tiền vào chỉ đáp ứng dưới 50% chi phí. 

Một số giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp

Trước diễn biến phức tạp và khó dự đoán của dịch dịch Covid- 19, Nhà nước, các cơ quan liên quan, đặc biệt là các DN cần có các biện pháp phù hợp để vượt qua khó khăn. Cụ thể:

Về phía Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước

Một là, tích cực triển khai các biện pháp kiểm soát tốt dịch bệnh trong bối cảnh mới nhằm kích thích tăng tổng cầu cho nền kinh tế.

Hai là, hỗ trợ DN trong khơi thông nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu. Chính phủ cần tháo gỡ những vướng mắc về logistics, giảm thiểu tình trạng ách tắc ở biên giới do công tác phòng dịch. Khuyến khích phát triển ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho những ngành xuất khẩu chủ lực. Hỗ trợ các DN cung ứng vật tư trong nước để đảm bảo nguồn nguyên vật liệu trong nước.

Ba là, tái cơ cấu DN khu vực tư nhân nhằm hạn chế tác động tiêu cực từ dịch bệnh Covid 19, tập trung vào các ngành, lĩnh vực chịu tác động nặng nề của dịch bệnh. Hỗ trợ DN tiếp cận các kênh thông tin về xuất, nhập khẩu nhằm tìm kiếm thị trường mới nhập khẩu nguyên, vật liệu đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hỗ trợ DN đẩy mạnh hoạt động thương mại điện tử số, kinh tế số.

Bốn là, hỗ trợ DN trong việc đảm bảo dòng tiền thanh toán. Giãn nợ, gia hạn nợ cho DN. Tiếp tục gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất cho DN. Dịch Covid-19 tác động đến cả cung và cầu hàng hoá trên thị trường. Do đó, Chính phủ cần nghiên cứu và đẩy nhanh các gói cứu trợ nền kinh tế tác động đến cả cung và cầu. Ví dụ như giảm thuế giá trị gia tăng giúp giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, phục hồi được tiêu dùng, từ đó phát triển sản xuất.

Đồng thời, cần tập trung hỗ trợ những DN có đầu ra (có các đơn hàng) nhưng thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Thực hiện phân nhóm cụ thể, tập trung vào các ngành, lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh của dịch covid 19, bên cạnh đó là khối DN nhỏ, vừa, siêu nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể. Sử dụng hiệu quả Quỹ phát triển DN vừa và nhỏ để tạo điều kiện cho DN vừa và nhỏ có nguồn tài chính để vượt qua khó khăn, phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Năm là, đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác công- tư theo hướng đa dạng hoá về nguồn hàng, khách hàng và thị trường, đặc biệt đối với DN thuộc các ngành, lĩnh vực chịu tác động nặng nề của dịch bệnh như vận tải, du lịch, nông sản xuất khẩu và các DN công nghiệp chế tạo phụ thuộc vào nguồn nguyên, vật liệu từ nước ngoài.

Sáu là, hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, cắt giảm các quy định không cần thiết, không hợp lý, là rào cản cho hoạt động của DN.

Về phía doanh nghiệp

Thứ nhất, các DN cần chú trọng đa dạng hoá nguồn cung nguyên vật liệu, đặc biệt với nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu. Nhiều DN Việt Nam trong tình trạng phụ thuộc quá lớn vào một thị trường, một nguồn cung nguyên vật liệu. Nếu xảy ra biến động từ thị trường nguồn cung thì các DN khó có khả năng chống đỡ.

Do vậy, cần hạn chế thấp nhất việc phụ thuộc vào một thị trường do tính rủi ro và thiếu bền vững. Thúc đẩy hợp tác song phương, đa phương về khoa học và công nghệ, tìm kiếm, chuyển giao công nghệ nước ngoài nhằm tận dụng hiệu quả tài nguyên, giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung ứng vật liệu nước ngoài.

Thứ hai, DN cần nỗ lực tiếp cận thị trường mới, tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận trong các thị trường hiện tại, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cải thiện chất lượng sản phẩm và nâng cao năng suất. Giới thiệu, phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới, đồng thời, cần nghiên cứu tình hình dịch bệnh và thị trường để điều chỉnh kế hoạch sản xuất, mục tiêu từng giai đoạn ngắn.

Thứ ba, áp dụng công nghệ, tự động hoá một số công việc trong DN nhằm tinh gọn bộ máy lao động, giảm chi phí phù hợp với bối cảnh mới. Cơ cấu lại DN, cải thiện quản trị DN. Tận dụng các sàn thương mại điện tử để bán hàng, chuyển kênh bán hàng truyền thống thành online nhằm cắt giảm chi phí.

Thứ tư, các DN Việt Nam có thể kết hợp với nhau lập ra một chuỗi cung ứng mới. Tìm cách kết nối phát triển thị trường nội bộ giữa các DN và hiệp hội DN trong tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, tìm nguyền cung ứng vật tư, nguyên liệu, chia sẻ công nghệ và kinh nghiệm quản lý... Các DN có thể hỗ trợ nhau về vốn thay vì vay tiền từ ngân hàng cùng với các quyền lợi hấp dẫn hơn dành cho nhau.

Tài liệu tham khảo:

Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.57-58, 4-42;

Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế quý I/2020;

Niên giám thống kê năm 2017-2019, Tổng cục Thống kê.

Bộ Y tế. Trang thông tin về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid -19. https://ncov.moh.gov.vn;

Công ty cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (Vietnam report). Báo cáo xếp hạng FAST-500

Lê Duy Bình (2018), Kinh tế tư nhân Việt Nam – Năng suất và thịnh vượng, Sáng kiện Hỗ trợ Khi vực Tư nhân Vùng Mekong (MBI).