Giải pháp tiếp cận vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn “hậu” dịch Covid-19

Bài viết đăng trên Tạp chí Tài chính Kỳ 2 - Tháng 7/2020

Những hệ lụy do Covid-19 để lại cho nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng là rất lớn. Doanh nghiệp nhỏ và vừa là đối tượng chịu thiệt hại nặng nề nhất bởi còn hạn chế về nguồn vốn, nhân lực và thị trường.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Dù đã có nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhưng trên thực tế các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn phải đối diện với nhiều khó khăn. Bài viết đánh giá thực trạng, những rào cản đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tiếp cận vốn, từ đó đề xuất một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Giới thiệu

Ở Việt Nam, trong giai đoạn 2010-2017, khu vực doanh nghiệp đóng góp bình quân cho ngân sách nhà nước (NSNN) khoảng 12,4%/năm, tương đương trên 60% GDP. Trong đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) chiếm đến 98,1% tổng số DN đang hoạt động, đóng góp khoảng 45% GDP, 31% tổng thu NSNN và tạo công ăn việc làm cho khoảng hơn 5 triệu lao động.

Trong giai đoạn 2012-2017, số DNNVV tăng 8,8% cao hơn mức tăng bình quân của DN lớn là 5,4%. Do đó, những báo cáo về ảnh hưởng của dịch Covid-19 đến các DN của Việt Nam chính là hầu hết các DNNVV.

Kết quả khảo sát gần 130.000 DN do Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện cho biết, tính đến tháng 4/2020, có khoảng 86% DN bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19; doanh thu 4 tháng đầu năm 2020 giảm mạnh xuống còn khoảng 70% so cùng kỳ năm 2019; hơn 45% số DN đang bị thiếu hụt nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh. Nhiều DN buộc phải sử dụng các biện pháp cắt giảm tiền lương và lao động; trong 4 tháng đầu năm 2020, số DN đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 33,6% so với cùng kỳ năm 2019…

Theo kết quả khảo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tiến hành cuối tháng 4/2020, đầu tháng 5/2020 về thực trạng của cộng đồng DN, thì có tới 55% DN cho biết sẽ tiếp tục duy trì quy mô sản xuất hiện tại trong quý III/2020; 22% có kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh, 21% sẽ thu hẹp quy mô, tạm dừng hoạt động.

Nhìn chung, DNNVV đều có những khó khăn, liên quan đến thanh khoản hay chiến lược kinh doanh, nên ngoài việc các DNNVV cần cải thiện nội lực, tái cơ cấu, tăng khả năng thích ứng thì Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần có những giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho DNNVV trong tiếp cận vốn, khơi thông sản xuất kinh doanh hậu dịch Covid-19.

Thực trạng tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn hậu dịch Covid - 19

Chính phủ và Hiệp hội DN nhỏ và vừa Việt Nam đã, đang đưa ra các chính sách rất tích cực như hỗ trợ tài chính, tín dụng cho cộng đồng DN cùng người dân chịu ảnh hưởng trực tiếp từ dịch Covid-19. Hiện nay, các DN; đặc biệt là DN vừa, nhỏ, và siêu nhỏ vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, bởi vậy rất cần những chính sách hỗ trợ vừa cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài của Chính phủ, các bộ, ngành.

Trong tháng 4/2020, cả nước có 3.810 DN quay trở lại hoạt động, tăng 11,3% so với tháng trước và tăng 40,4% so với cùng kỳ năm 2019. Tính chung 4 tháng đầu năm 2020, cả nước có 37,6 nghìn DN đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký là 445,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 315,7 nghìn lao động, giảm 13,2% về số DN, giảm 17,9% về vốn đăng ký và giảm 29,7% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một DN thành lập mới trong 4 tháng đầu năm 2020 đạt 11,8 tỷ đồng, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tất cả các ngành, lĩnh vực hoạt động có duy nhất ngành sản xuất phân phối điện, nước, gas có số DN thành lập mới, tăng với 527 DN, tăng 40,5% so với cùng kỳ năm trước. Các ngành còn lại đều có số DN thành lập mới giảm: bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy, xây dựng, công nghiệp chế biến, chế tạo, khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác…

Theo khảo sát, hiện nay có tới 90% các DN nhỏ và siêu nhỏ thiếu tài sản đảm bảo nên khi rơi vào khó khăn lại càng khó tiếp cận nguồn vốn. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tín dụng của toàn ngành đến đầu tháng 5/2020 tăng khoảng 1,2%, nhưng ở khu vực DNNVV lại giảm 0,8%. Điều này cho thấy, một trong những tác động nặng nề do ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19 đến các DNNVV là sự thiếu hụt dòng tiền và điều này gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại của các DN.

Để DNVVN thuận lợi hơn trong tiếp cận vốn, Chính phủ, các bộ, ngành đã ban hành nhiều chính sách để tháo gỡ khó khăn hỗ trợ cho  DNNVV giai đoạn hậu dịch Covid-19. Cụ thể, ngày 12/3/2020, NHNN đã ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN quy định về tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

Theo đó, các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài quyết định việc miễn, giảm lãi, phí theo quy định nội bộ đối với số dư nợ phát sinh từ hoạt động cấp tín dụng (trừ hoạt động mua, đầu tư trái phiếu DN) mà nghĩa vụ trả nợ gốc và/hoặc lãi trong khoảng thời gian từ ngày 23/01/2020 đến ngày liền sau 03 tháng kể từ ngày Thủ tướng Chính phủ công bố hết dịch Covid-19 và khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn nợ gốc và/hoặc lãi do sụt giảm doanh thu, thu nhập bởi dịch Covid-19.

Ngay từ đầu tháng 7/2020, NHNN đã chủ động điều chỉnh tín dụng hỗ trợ phục vụ cho tăng trưởng, trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại (NHTM), kể cả NHTM có vốn Nhà nước hay NHTM cổ phần tư nhân đã thực hiện điều chỉnh tăng trưởng tín dụng ở mức cao hơn so với nhu cầu.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2020, cả nước có 37,6 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký là 445,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 315,7 nghìn lao động, giảm 13,2% về số doanh nghiệp, giảm 17,9% về vốn đăng ký và giảm 29,7% về số lao động so với cùng kỳ năm trước.

Cùng với đó, các TCTD đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khoảng gần 260.000 khách hàng với dư nợ gần 180.000 tỷ đồng; miễn giảm và hạ lãi suất cho khoảng 421.000 khách hàng với dư nợ gần 1,3 triệu tỷ đồng; cho vay mới khoảng 1,1 triệu tỷ đồng cho gần 240.000 khách hàng, lãi suất thấp hơn từ 0,5-2,5%/năm so với trước dịch.

Trong thời gian qua, nhiều ngân hàng đã có chương trình giảm phí giảm lãi cho khách hàng. Chẳng hạn đã tổng kết đến tháng 4/2020, các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho trên 52.000 khách hàng với số tiền gần 18.000 tỷ đồng; thực hiện miễn, giảm lãi cho gần 6.500 khách hàng với dư nợ gần 126.000 tỷ đồng; cho vay mới 165.208 tỷ đồng với 354.286 khách hàng. Dư nợ của toàn ngành tập trung chủ yếu ở một số lĩnh vực: Công nghiệp chế biến, chế tạo (60.000 tỷ đồng); bán buôn bán lẻ (43.000 tỷ đồng); nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản (16.000 tỷ đồng).

Các ngân hàng lớn như Vietcombank, BIDV, VietinBank, AgriBank cam kết giảm sâu lãi suất cho vay tới 2,5% một năm, đặc biệt cho DN phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu trong đại dịch Covid-19. Cụ thể, Vietcombank dành gói tín dụng 30.000 tỷ đồng với lãi suất cho vay giảm 2-2,5% so với mặt bằng hiện nay. Các DN sản xuất mặt hàng thiết yếu sẽ được giảm tới 2,5% một năm và được hưởng mức lãi suất chỉ 4,5-5% một năm. Agribank đưa ra gói ưu đãi lãi suất quy mô khoảng 100 nghìn tỷ đồng, triển khai từ 1/4, trong đó hỗ trợ giảm lãi suất thêm 2%/năm đối với các đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch Covid-19.

Nguyên nhân khiến các doanh nghiệp nhỏ và vừa khó tiếp cận vốn giai đoạn hậu dịch Covid-19

Mặc dù, cả hệ thống chính trị đều chung tay, đưa ra nhiều chính sách nhằm hỗ trợ nhằm khơi thông nguồn vốn cho DNNVV, tuy nhiên việc tiếp cận nguồn vốn của các DNVVN là khá khó khăn. Nguyên nhân xuất phát từ cả hai phía: DN và ngân hàng.

Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, các DN nhỏ và siêu nhỏ luôn trong tình trạng thiếu vốn. Bên cạnh đó, các DN nhỏ cũng thiếu kinh nghiệm quản trị và tài sản đảm bảo. Để vay vốn, thì các ngân hàng đòi DN phải có tài sản thế chấp, mà tài sản thế chấp đó phải thuộc về người sáng lập, không thể lấy tài sản của cán bộ nhân viên ra thế chấp được. Thêm nữa, các ngân hàng cũng không chấp nhận tài sản thế chấp là tài sản hình thành trong tương lai càng khiến cho cánh cửa vay vốn của các DNVVN thu hẹp lại.

 Về phía DN, thì các thông tin về thị trường, công nghệ, quản trị có hạn chế nhất định còn về phía ngân hàng, thủ tục đôi khi còn rườm rà.

Ở Việt Nam, DN giao dịch với quá nhiều ngân hàng, chính vì vậy, lý lịch tín dụng của họ vô cùng phức tạp. Muốn làm bạn, đồng hành với nhau, cần phải có sự tin tưởng dài hạn. Khi một DN gửi hồ sơ vay vốn ngân hàng, nhưng khi đến thẩm định dự án, lại phát hiện ra DN cũng đang dùng tiền của ngân hàng khác, thành ra quá trình vay khá phức tạp. Nói cách khác, năng lực của các DNNVV còn hạn chế, hoạt động kém hiệu quả; nhiều DNNVV không chịu công khai thông tin, tình hình tài chính công ty, không minh bạch, thiếu trung thực trong quản lý tài chính gây khó khăn cho ngân hàng thẩm định, đánh giá năng lực tài chính và hiệu quả hoạt động kinh doanh.

Vậy nên DN cần ngân hàng và ngân hàng cần DN. Khi chưa có Covid-19 mọi chuyện cũng không hề đơn giản, quan hệ ấy có thể là cùng thắng, cũng có thể là một bên thua một bên thắng và thậm tệ nhất là hai bên cùng thua. Với Covid-19, khi mà chuỗi cung ứng khó khăn, thu nhập thế giới suy giảm, cơ hội làm ăn không còn nhiều như bình thường. Về phía ngân hàng, tiền có thể có nhưng lo nợ xấu.

Để doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ tiếp cận vốn giai đoạn hậu dịch Covid-19

Thời gian tới, nhằm tháo gỡ khó khăn cho DNNVV trong tiếp cận vốn cần chú trọng một số giải pháp sau:

Đối với cơ quan Nhà nước

- Cần tiếp tục cải cách quy trình, thủ tục để DNNVV tiếp cận các chính sách hỗ trợ đơn giản, thuận tiện, kip thời.

- Tiếp tục đưa ra các giải pháp về hỗ trợ tín dụng như giảm lãi suất vay vốn và giãn nợ đối với các khoản vay hiện hữu; xây dựng, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp bộ quy tắc chuẩn mực áp dụng chung cho khối ngân hàng về việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ, thống nhất tiêu chí xác định biên độ giảm lãi, quy trình thẩm định và xét duyệt; cân nhắc cho vay ưu đãi với lãi suất 0% hoặc hỗ trợ một phần chi phí trả công cho lao động để DN duy trì được bộ máy nhân sự hiện có, giữ chân được lao động lành nghề và lao động có trình độ chuyên môn.

- Tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp hỗ trợ về thuế, phí, lệ phí, như cắt giảm một số loại thuế, phí, lệ phí cơ sở hạ tầng: phí lưu thông, phí cầu đường, bến bãi; triển khai áp dụng giảm thuế thu nhập DN với một số ngành nghề đặc thù thuộc danh mục ngành công nghiệp hỗ trợ; tiếp tục đẩy nhanh quá trình triển khai miễn, giảm thuế, tiền thuê đất; giảm giá thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh.

Hiện nay có tới 90% các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ thiếu tài sản đảm bảo nên khi rơi vào khó khăn doanh nghiệp lại càng khó tiếp cận nguồn vốn. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tín dụng của toàn ngành đến đầu tháng 5/2020 tăng khoảng 1,2%, nhưng ở khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa lại giảm 0,8%.

- Đẩy mạnh Chính phủ điện tử, gửi văn bản hướng dẫn thủ tục tiếp cận các chính sách hỗ trợ đến từng DN qua hòm thư điện tử hoặc đăng tải thông tin hướng dẫn chi tiết, công khai, minh bạch, rõ ràng và cụ thể trên trang thông tin của Chính phủ.

- Trước thực trạng, ngân hàng đang có nhiều tiền nhàn rỗi và đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ DN, nhưng trong tình hình dịch bệnh, các hoạt động sản xuất ngưng trệ khiến thị trường khó hấp thụ nguồn vốn, nhiều DN không có nhu cầu vay vốn.

Để hỗ trợ DN, các tổ chức tín dụng phải tính toán rất chi tiết về khả năng trả nợ của DN. Những DN yếu hoặc không chứng minh được khả năng trả nợ ngắn hạn thì chắc chắn không thể tiếp cận được. Trước mắt, các ngân hàng thương mại tìm hiểu nhu cầu từng nhóm khách hàng để có chính sách hỗ trợ cụ thể, hiệu quả, giúp các DN vượt qua giai đoạn khó khăn. Các ngân hàng thương mại đã dự kiến đưa ra những gói sản phẩm, chương trình giảm lãi suất, hỗ trợ DN... cần công bố, triển khai thực hiện ngay.

Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa

- Những DN đã nhận được hỗ trợ của Nhà nước từ Chỉ thị số 11/CT-TTg, nhanh chóng triển khai hoạt động để ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh. Đối với những DN chưa biết đến hoặc chưa nhận được hỗ trợ từ Chỉ thị số 11/CT-TTg cần nhanh chóng tiếp cận các cơ quan liên quan để hoàn thành thủ tục cần thiết, tiếp nhận hỗ trợ để ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh.

- DN cần linh hoạt, sáng tạo chuyển đổi mô hình sản xuất kinh doanh hiệu quả trong giai đoạn cả nước và toàn cầu vẫn đang phải gánh chịu tác động của dịch bệnh.

- Tăng cường đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt các công nghệ lõi có tính tiên phong. Chủ động đổi mới tư duy kinh doanh, nâng cao năng lực quản trị, năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ; chuẩn hóa sản xuất kinh doanh để đáp ứng các yêu cầu, tiêu chí của các thị trường quốc tế.

- Hầu hết các quốc gia là thị trường xuất khẩu lớn của hàng hóa Việt Nam đã đạt được những kết quả tốt trong phòng chống dịch bệnh và đang tái khởi động nền kinh tế. Hơn nữa, các quốc gia này cũng đều đưa ra các gói hỗ trợ, cứu trợ DN phục hồi sản xuất, kinh doanh. Vì thế, đây là cơ sở để các DN Việt Nam duy trì và tìm kiếm bạn hàng, đối tác xuất nhập khẩu trong thời gian tới. Tăng cường liên kết, hợp tác kinh doanh phát triển các chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, dịch vụ, tiến tới nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

- Đại dịch diễn ra khiến nhu cầu tiêu dùng giảm mạnh, thị trường xuất khẩu gặp khó, thiếu hụt nguyên liệu... dẫn tới sụt giảm doanh thu của hầu hết các DN. Vì thế, các DN buộc phải đưa ra những phương án, chiến lược kinh doanh phù hợp; gắn những vấn đề ngắn hạn cấp bách với chiến lược trung và dài hạn.

Bởi, sau đại dịch, chuỗi cung ứng trên toàn cầu sẽ sớm được tái cơ cấu và định vị. Qua khảo sát, 31% DN hội viên Hội đồng DN vì sự phát triển bền vững cho biết, đã và sẽ tập trung nhiều hơn cho thị trường trong nước, giảm sự phụ thuộc vào các thị trường nước ngoài. Đặc biệt, 81% DN sẽ đẩy mạnh liên kết ngành, đảm bảo không làm đứt gãy chuỗi cung ứng nếu trong tương lai có thể xảy ra những sự kiện tương tự như dịch Covid-19.

- Ngoài ra, các DN cũng sẽ đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử, kinh doanh trực tuyến, chuyển đổi số... nhằm giảm sự phụ thuộc vào các thị trường, hình thức kinh doanh truyền thống. Tuy nhiên, việc cần làm trước tiên đó là tiết kiệm, cắt giảm chi phí, hoãn đầu tư những hạng mục chưa thiết yếu là những yêu cầu cấp bách đối với các DN hiện nay.

- DNNVV cần thực hiện minh bạch tài chính để được ngân hàng duyệt vốn nhanh, vì đây là nhưng cam kết công khai của các ngân hàng trong quá trình chung tay cùng các DNNVV vượt qua đại dịch Covid-19. Về bản chất, hệ thống báo cáo tài chính của các DN Việt Nam có độ tin cậy thấp nên khó có thể thuyết phục ngân hàng, nhưng một điều đáng mừng là nhiều DN đã bắt đầu cải thiện.

- Các DNNVV cần nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp cận nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn vay có hiệu quả. Các ngân hàng cũng đưa ra các sản phẩm tài trợ theo chuỗi giá trị làm tăng khả năng cạnh tranh của DN. Bởi khi tài trợ riêng lẻ từng DN thì bản thân ngân hàng cũng phát sinh chi phí, các chi phí đó lại được cộng vào giá bán làm tăng chi phí của DN. Các DNNVV cần tận dụng sự hợp tác của các ngân hàng khi họ thúc đẩy thương mại điện tử, tạo ra các trung tâm hỗ trợ các DN thương mại điện tử.

- Đổi mới mô hình sản xuất kinh doanh gắn với mục tiêu phát triển bền vững: Sản xuất sạch, xanh, tiết kiệm, sử dụng hiệu quả năng lượng, bảo vệ môi trường, hướng tới nhóm người yếu thế trong xã hội.

 

Tài liệu tham khảo:
1. Ngân hàng Nhà nước (2020), Thông tư số 01/2020/TT-NHNN quy định về tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19;
2. Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
3. http://baochinhphu.vn/;
4. https://forbesvietnam.com.vn/;
5. https://nhandan.com.vn/.