Loại bỏ những rào cản đối hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức. Để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, cần có những công cụ hướng dẫn doanh nghiệp giải quyết hiệu quả các khó khăn, vướng mắc gặp phải trong quá trình đầu tư ra nước ngoài.
Kết quả tích cực từ chính sách thông thoáng
Vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp (DN) Việt Nam trải qua các giai đoạn thăng trầm, bắt đầu manh nha những dự án đầu tiên từ những năm 1989, sau đó tăng trưởng mạnh về số dự án và vốn đăng ký từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Tuy nhiên, sự khởi sắc của hoạt động đầu tư ra nước ngoài của DN Việt Nam thực sự bắt đầu nhờ nỗ lực chuẩn hóa thủ tục đầu tư gắn với hoàn thiện hành lang pháp lý phù hợp với bối cảnh mới. Thực tế cho thấy, kể từ khi Nghị định số 83/2015/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn về đầu tư ra nước ngoài được ban hành, việc mở rộng phạm vi đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài của DN trong nước đã được tạo điều kiện thuận lợi hơn.
Ngoài ra, Thông tư số 03/2018/TT-BKHĐT do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành ngày 17/10/2018 hướng dẫn và ban hành mẫu văn bản thực hiện thủ tục đầu tư ra nước ngoài cũng đã góp phần chuẩn hóa thủ tục pháp lý cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài, vừa tạo môi trường thông thoáng, vừa giúp cơ quan quản lý nhà nước tăng cường hiệu lực quản lý với các dự án ngoài lãnh thổ Việt Nam...
Nhờ đó, đến nay, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam đã tạo được những dấu ấn nhất định. Thống kê cho thấy, lũy kế từ năm 1989 đến nay, Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài hơn 22 tỷ USD với các lĩnh vực thế mạnh của Việt Nam là nông nghiệp, lâm nghiệp, năng lượng và viễn thông. Trong đó, các nước như Lào, Campuchia và Myanmar chiếm gần 40% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của DN Việt Nam.
Nhiều tập đoàn, tổng công ty, DN có vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài đã vượt ngưỡng 1 tỷ USD như: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), Công ty Cổ phần Hoàng Anh - Gia Lai....
Riêng năm 2019, tổng vốn đầu tư ra nước ngoài cấp mới và tăng thêm của Việt Nam đạt 508,14 triệu USD; trong đó, có 164 dự án được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới, với tổng vốn đầu tư bên Việt Nam đạt 403,15 triệu USD. Bên cạnh đó, có 29 lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư với vốn đầu tư Việt Nam tăng thêm gần 105 triệu USD.
Những rủi ro, thách thức cần được khắc phục
Bên cạnh những đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam, cho các quốc gia và cộng đồng tiếp nhận đầu tư thì đầu tư ra nước ngoài của các DN Việt Nam hiện nay vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức. Cụ thể, những khác biệt về văn hóa, pháp luật, môi trường giữa Việt Nam và các quốc gia tiếp nhận đầu tư này đã dẫn đến các tranh chấp ngoài mong muốn, ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án, quyền và lợi ích của người dân địa phương cũng như hình ảnh của nhà đầu tư Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Năng lực của DN Việt Nam vẫn còn yếu. Theo các chuyên gia kinh tế, nguyên nhân chủ quan dẫn đến kết quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài của DN Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài chưa đạt như kỳ vọng là do khả năng dự báo thị trường, năng lực quản lý, năng lực tài chính vẫn còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, nhiều DN Việt Nam ra nước ngoài kinh doanh nhưng hoạt động còn mang tính tự phát, do đó cũng rất dễ xảy ra tranh chấp và hiệu quả đầu tư không cao.
Trong thời gian tới, nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài của DN Việt Nam, về phía cơ quan quản lý nhà nước, một số vấn đề cần chú trọng thực hiện gồm: Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài của DN Việt Nam theo hướng tiệm cận dần với các thông lệ, pháp luật quốc tế, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho DN Việt Nam trong quá trình đầu tư ra nước ngoài; Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế, ký kết các hiệp định đầu tư song phương, đa phương nhằm bảo vệ các DN, gỡ bỏ các rào cản khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài…
Quan trọng hơn, cơ quan quản lý cần có những công cụ hướng dẫn DN giải quyết hiệu quả các khó khăn, vướng mắc, rủi ro gặp phải trong quá trình đầu tư ra nước ngoài; Kịp thời nắm bắt, xử lý các vướng mắc, khó khăn của DN đầu tư ra nước ngoài; Hướng dẫn cung cấp thông tin tổng thể về quy trình đầu tư ra nước ngoài từ Việt Nam đến nước nhận đầu tư; Chú trọng hỗ trợ về mặt pháp lý, chủ động phối hợp cùng DN tham gia xử lý các vấn đề phát sinh, các tranh chấp trong quá trình đầu tư tại nước sở tại.
Về phía DN, cần chủ động tìm hiểu, tuân thủ pháp luật nước sở tại, luật pháp quốc tế và các chính sách, pháp luật có liên quan khác. DN phải có ý thức bảo vệ môi trường sống nơi sở tại, cần đảm bảo lợi ích hài hòa cho người dân địa phương, tạo công ăn việc làm và tích cực các hoạt động từ thiện, xóa đói giảm nghèo đối với quốc gia nhận đầu tư. Bên cạnh đó, DN tiếp tục nâng cao năng lực dự báo thị trường, năng lực tài chính; Xây dựng chiến lược kinh doanh, chiến lược sản phẩm, thương hiệu để từng bước nâng cao năng lực quản trị; Cần có các khảo sát, nghiên cứu kỹ lưỡng về cơ chế đầu tư, tiềm năng thị trường, triển vọng lợi nhuận… trước khi đưa ra các quyết định đầu tư.