Nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại PVcomBank – chi nhánh An Giang

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 10/2019

Bài viết hệ thống hóa các vấn đề về quản lý rủi ro tín dụng trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam cùng với việc khái quát hiệu quả hoạt động kinh doanh, thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại chúng Việt Nam - Chi nhánh An Giang trong giai đoạn 2016-2018. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng, hoạt động kinh doanh của ngân hàng từ nay đến năm 2023, góp phần phát triển kinh tế - xã hội tỉnh An Giang.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Đặt vấn đề

Nền kinh tế Việt Nam đã, đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tài chính, góp phần thúc đẩy thị trường ngân hàng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, với đặc thù của một lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm, chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố cả trực tiếp và gián tiếp, rủi ro ngân hàng lớn là yếu tố không thể tránh khỏi và có khả năng trở thành nguy cơ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) nói riêng và hệ thống thị trường tài chính, nền kinh tế nói chung.

Thời gian qua, quản lý rủi ro tín dụng (RRTD) tại Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PVcomBank) – Chi nhánh An Giang cho thấy, RRTD của ngân hàng này chưa được kiểm soát tốt và có xu hướng ngày càng gia tăng. Chính vì vậy, cần tăng cường quản lý, kiểm soát RRTD một cách bài bản và có hiệu quả, đảm bảo chất lượng tín dụng hoạt động trong phạm vi rủi ro chấp nhận được, hỗ trợ việc phân bổ vốn hiệu quả hơn trong hoạt động tín dụng, giảm thiểu các thiệt hại phát sinh từ RRTD và tăng thêm lợi nhuận kinh doanh. Qua đó, góp phần nâng cao uy tín và lợi thế cạnh tranh của ngân hàng và đặc biệt là đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định phát triển kinh tế - xã hội.

Khái quát về quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại

Rủi ro tín dụng ngân hàng

Nguyễn Văn Tiến (2010) cho rằng: RRTD phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ gốc là lãi khoản vay, hoặc việc thanh toán nợ gốc lãi không đúng kỳ hạn. Nếu tất cả các khoản đầu tư của ngân hàng được thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn thì ngân hàng không chịu bất cứ RRTD nào. Trong trường hợp người vay tiền phá sản thì việc thu hồi gốc lãi tín dụng đầy đủ là không chắc chắn, do đó ngân hàng có thể gặp RRTD. Theo Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 01/2014/TT-NHNN ngày 31/3/2014 của Ngân hàng Nhà nước quy định và phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài định nghĩa: “RRTD trong hoạt động ngân hàng là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết.

Quản lý rủi ro tín dụng

Theo Nguyễn Quang Thu (2008), quản lý rủi ro là một chức năng quản trị chung để nhận ra, đánh giá và đối phó với những nguyên nhân và hậu quả của tính bất định và rủi ro của tổ chức. Mục đích của quản lý rủi ro là cho phép tổ chức tiến đến những mục đích của nó bằng con đường trực tiếp, có hiệu năng và hiệu quả nhất”. Như vậy, quản lý RRTD là quá trình kiểm soát tác động của các sự kiện liên quan đến RRTD trên cơ sở tài chính, bao gồm các công việc như: Xác định, đo lường mức độ tổn thất tiềm năng và thực hiện các biện pháp thích hợp để giảm thiểu nguy cơ thiệt hại cho các tổ chức tài chính. Theo cách hiểu của hệ thống ngân hàng Việt Nam thì, RRTD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. Trong kinh doanh, việc ngân hàng đương đầu với RRTD là điều không thể tránh khỏi và việc thừa nhận tỷ lệ RRTD tự nhiên trong kinh doanh là yêu cầu khách quan, hợp lý.

Nhiệm vụ chủ yếu của công tác quản lý rủi ro tín dụng

Một là, nhận diện và phân loại rủi ro: Việc đầu tiên của công tác quản lý RRTD là phải nhận dạng rủi ro, cụ thể phải theo dõi, xem xét môi trường hoạt động kinh doanh và quy trình cho vay để thống kê các dạng RRTD, phân tích các nguyên nhân đã xảy ra và đưa ra được các dự báo tiềm ẩn có thể gây ra RRTD.

Hai là, đánh giá mức độ rủi ro: Để đánh giá rủi ro một cách có cơ sở cần phải thu thập số liệu và phân tích dựa trên các tiêu chuẩn đã đặt ra. Các đối tượng cần đánh giá mức độ rủi ro bao gồm: Nội bộ ngân hàng; Khách hàng; Danh mục đầu tư.

Ba là, phòng chống và dự phòng rủi ro: Theo BIS (2000), Kiểm soát rủi ro là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược và các chương trình hoạt động để ngăn ngừa, né tránh, giảm thiểu rủi ro.

Bốn là, theo dõi, đánh giá và điều chỉnh phương pháp phòng chống rủi ro: Việc báo cáo kịp thời, theo đúng yêu cầu về rủi ro là công cụ hỗ trợ đắc lực trong công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro. (Theo Nguyễn Văn Tiến, 2010).

Quản lý rủi ro tín dụng tại PVcomBank –  Chi nhánh An Giang giai đoạn 2016-2018

Nợ quá hạn theo phân loại nợ

Nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại  PVcomBank – chi nhánh An Giang - Ảnh 1

Bảng 1 cho thấy, dư nợ đủ tiêu chuẩn luôn tăng qua các năm và chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng dư nợ. Cụ thể, năm 2016, dư nợ đủ tiêu chuẩn đạt 781,43 tỷ đồng. Năm 2017 đạt 1.143,99 tỷ đồng, tăng 362,56 tỷ đồng so với năm 2016, đạt tỷ lệ tăng 46,40%, (tỷ trọng chiếm 99,53% tổng dư nợ). Năm 2018 đạt 1.481,91 tỷ đồng tăng 337,92 tỷ đồng so năm 2017, đạt tỷ lệ tăng 29,54% (tỷ trọng chiếm 99,84% tổng dư nợ). Nợ đủ tiêu chuẩn là khoản nợ có khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng thời hạn. Tỷ trọng khoản nợ này tăng hay giảm trong tổng các khoản mục nợ đều không ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng cũng không gây ra RRTD cho Chi nhánh. Nguyên nhân của khoản nợ này tăng nhanh qua các năm là do khả năng cho vay cũng như quy mô hoạt động của chi nhánh ngân hàng phát triển, hiệu quả, hoạt động tín dụng tốt.

Trong giai đoạn 2016-2017, dư nợ quá hạn của Chi nhánh tăng từ 1,17 tỷ đồng đến 5,40 tỷ đồng. Điều này cho thấy, việc thẩm định hồ sơ tín dụng của Chi nhánh chưa đạt hiệu quả cao. Mặc dù, Chi nhánh đã không ngừng hoàn thiện bộ máy hoạt động, điều chỉnh quy chế và quy trình nghiệp vụ tín dụng để thích ứng với hoạt động kinh doanh, nhưng chưa kiểm soát được chất lượng tín dụng và không tránh được rủi ro. Giai đoạn 2017-2018, tình hình dư nợ quá hạn của Chi nhánh giảm, thể hiện tính tích cực, hiệu quả. Cụ thể: Năm 2018 đạt 2,40 tỷ đồng, giảm 3,00 tỷ đồng so với năm 2017, đạt tỷ lệ giảm 55,56%. Điều này cho thấy, Ngân hàng đã nhận thấy được sự bất cập trong công tác thu nợ của khách hàng và dần hoàn thiện hệ bộ máy hoạt động, điều chỉnh quy trình nghiệp vụ tín dụng hoạt động hiệu quả hơn.

Nợ quá hạn theo thời hạn 

Nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại  PVcomBank – chi nhánh An Giang - Ảnh 2

Bảng 2 cho thấy, năm 2016 nợ quá hạn không phát sinh; năm 2017 nợ quá hạn ngắn hạn có giá trị là 1,10 tỷ đồng; năm 2018 nợ quá hạn ngắn hạn đã giảm xuống là 0. Doanh số cho vay ngắn hạn có sự biến động tăng trong năm, nhưng nợ quá hạn ngắn hạn tăng rồi giảm cho thấy chất lượng tín dụng ngắn hạn đang được ngân hàng kiểm soát ở mức tốt, công tác thu nợ của cán bộ nhân viên ngân hàng tích cực hơn trong giai đoạn 2017-2018, Nợ quá hạn ngắn hạn tính đến năm 2018 không còn, cho thấy hoạt động tín dụng ngắn hạn của ngân hàng ít giảm rủi ro.

Đối với cho vay trung và dài hạn: Năm 2016 đạt 1,17 tỷ đồng. Năm 2017 đạt 4,30 tỷ đồng, tăng so với năm 2016 là 3,13 tỷ đồng, tăng tỷ lệ 267,52%; Năm 2018 đạt 2,40 tỷ đồng giảm 1,90 tỷ đồng so năm 2017, giảm tỷ lệ 44,19%. Cho vay trung và dài hạn thường chứa đựng nhiều rủi ro hơn là ngắn hạn. Số nợ quá hạn trung và dài hạn cao hơn nợ ngắn hạn, mặc dù doanh số cho vay của ngắn hạn so với trung và dài hạn chiếm tỷ trọng tương đương nhau trong tổng doanh số cho vay. Điều này cho thấy, tín dụng trung và dài hạn của Chi nhánh có chất lượng thấp hơn so với tín dụng ngắn hạn.

Nợ quá hạn theo sản phẩm 

Nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại  PVcomBank – chi nhánh An Giang - Ảnh 3

Bảng 3 cho thấy, năm 2016 nợ quá hạn của hoạt động cho vay cá nhân là 1,17 tỷ đồng. Năm 2017 nợ quá hạn của hoạt động cho vay cá nhân tăng lên 5,40 tỷ đồng, tăng 4,23 tỷ đồng so với năm 2016, tương đương 361,54%. Năm 2018 nợ quá hạn của cho vay cá nhân là 2,40 tỷ đồng, giảm 3 tỷ đồng so với năm 2017, tương đương mức giảm tỷ lệ 55,56%.

Nguyên nhân của nợ quá hạn xuất hiện trong sản phẩm cho vay nhà đất là do sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến chậm trả nợ hoặc là khách hàng bị chậm trả nợ do nguồn tiền về chậm. Trong giai đoạn 2016-2018, nợ quá hạn của cho vay DN không có, thể hiện hoạt động kinh doanh, quản lý  RRTD đạt hiệu quả tốt. 

Hệ số rủi ro tín dụng

Bảng 4 cho thấy, hệ số RRTD của PVComBank - Chi nhánh An Giang có sự biến động khồng ổn định trong giai đoạn 2016-2018. Năm 2016, hệ số RRTD là 0,15%, đến năm 2017 hệ số RRTD tăng lên 0,47% và năm 2018 giảm xuống còn 0,16%. Hệ số RRTD của ngân hàng có tăng, có giảm nhưng đang ở mức thấp và trong ngưỡng cho phép của Ngân hàng Nhà nước là 5%.

Trong giai đoạn 2016-2017, hệ số RRTD có tăng là do Chi nhánh trong giai đoạn nỗ lực phát triển và tăng trưởng hoạt động tín dụng, tuy nhiên mức độ rủi ro tăng, dẫn đến nợ quá hạn tăng. Giai đoạn 2017-2018, hệ số RRTD giảm là do công tác thẩm định thắt chặt hơn đối với khách hàng, xử lý nợ quá hạn hiệu quả hơn.

Đáng giá chung về quản lý rủi ro tín dụng

Về kết quả đạt được

Kết quả đạt được của PVcomBank - Chi nhánh An Giang trong thời gian qua cho thấy một số điểm nhấn cơ bản trong công tác quản lý RRTD như: Kiểm soát quy trình cho vay chặt chẽ, quá trình cho vay được xét duyệt thận trọng, trước khi giải ngân hồ sơ được thông qua trưởng bộ phận, trưởng phòng và lãnh đạo cấp cao hơn của đơn vị. Chi nhánh đã sử dụng một số phương pháp nhận diện RRTD để đánh giá và phân tích khách hàng vay vốn một cách cơ bản và có hiệu quả. Việc áp dụng mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ phân chia theo từng loại hình khách hàng, ngành nghề lãnh vực kinh tế đã phản ánh được chất lượng khách hàng. Công tác kiểm soát RRTD đảm bảo theo quy định, tăng hiệu quả phân tích, thẩm định và phê duyệt tín dụng. Công tác quản lý RRTD tích cực thực hiện nâng cao khả năng phòng ngừa RRTD trong hoạt động kinh doanh.

Về hạn chế

Công tác nhận diện RRTD tại PVcomBank - Chi nhánh An Giang chưa kết hợp đồng bộ các phương pháp để phân tích và đánh giá các đối tượng khách hàng một cách thận trọng. Đo lường RRTD chỉ phản ánh thực trạng tín dụng, chưa đưa ra hệ thống giải pháp cụ thể phù hợp đối với các nguyên nhân gây ra nợ quá hạn. Kiểm soát RRTD khi phát hiện rủi ro còn chậm xử lý hoặc xử lý thiếu tính kiên quyết, chính sách tín dụng còn nhiều điểm chưa hợp lý.

Có thể chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế gồm: Chưa chú trọng đúng mức chất lượng tín dụng, mục tiêu của ngân hàng; Đội ngũ cán bộ, nhân viên của đơn vị phần lớn là đội ngũ nhân viên trẻ, ngân hàng chưa quan tâm nhiều tới công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ, nhân viên; Hoạt động xây dựng cơ bản gặp nhiều khó khăn về vốn, không có khả năng trả nợ ngân hàng; Chính sách pháp luật thường xuyên thay đổi, bất cập ảnh hưởng đến Chi nhánh...

Đề xuất một số giải pháp

Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý RRTD tại PVcomBank – Chi nhánh An Giang trong thời gian tới, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

PVcomBank - Chi nhánh An Giang đã sử dụng một số phương pháp nhận diện rủi ro tín dụng để đánh giá và phân tích khách hàng vay vốn một cách cơ bản và hiệu quả. Việc áp dụng mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ phân chia theo từng loại hình khách hàng, ngành nghề lĩnh vực kinh tế đã phản ánh được chất lượng khách hàng; công tác kiểm soát rủi ro tín dụng đảm bảo theo quy định, tăng hiệu quả phân tích, thẩm định và phê duyệt tín dụng.

Một là, nâng cao chất lượng tín dụng: Chấp hành nghiêm túc các quy định của Ngân hàng Nhà nước về tỷ lệ an toàn trong hoạt động của TCTD, quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các TCTD. Thẩm định các dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh được coi là khâu quan trọng nhất trước khi quyết định cho vay hay bảo lãnh. Trong quá trình cho vay, đơn vị cần chuyển khoản thẳng vào tài khoản của tổ chức cung ứng vật tư, hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức theo dõi chặt chẽ tiến độ hoàn thành từng hạng mục dự án đầu tư, quá trình nhập vật tư, hàng hóa.   

Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ: Tuyển chọn, xây dựng, bổ sung cán bộ phải có trình độ chuyên môn cao và có đạo đức tốt về nghề nghiệp. Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ làm công tác tín dụng. Nâng cao tinh thần và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ làm công tác tín dụng để phòng ngừa, hạn chế RRTD, rủi ro đạo đức nghề nghiệp; đồng thời, nâng cao tinh thần trách nhiệm, cần có chế độ tiền lương hấp dẫn để khuyến khích cán bộ tín dụng.

Ba là, mở rộng đầu tư có chọn lọc: Cơ cấu dư nợ cho vay khách hàng của Chi nhánh chưa thực sự đồng đều, chỉ tập trung vào một số khách hàng lớn. Cùng với đó, cơ cấu nợ ngắn hạn và trung dài hạn vẫn chưa hợp lý, tỷ lệ nợ trung - dài hạn chiếm tỷ lệ cao hơn làm giảm khả năng an toàn vốn của Chi nhánh. Vì vậy, trong thời gian tới, Chi nhánh cần mở rộng cho vay đối với DN sản xuất kinh doanh thuộc các ngành khác để mở rộng thị trường, đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng và tăng tỷ lệ cho vay vốn kinh doanh để tăng tỷ trọng nợ ngắn hạn. Việc lựa chọn lĩnh vực, ngành nghề đầu tư có tiềm năng để mở rộng hoạt động cho vay vốn là rất cần thiết.

Bốn là, tăng cường hoàn thiện hoạt động quản lý RRTD: Trong quá trình quản lý RRTD, đòi hỏi cán bộ, nhân viên làm trong công tác quản lý rủi ro phải đáp ứng nhu cầu chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp quản lý đối với từng khoản tín dụng và đối với danh mục tín dụng. Quản lý RRTD đối với từng khoản tín dụng đòi hỏi kiến thức cụ thể về hoạt động kinh doanh và điều kiện tài chính của đối tác, trong khi quản lý rủi ro danh mục tín dụng yêu cầu kiến thức bảo quản toàn diện để giám sát toàn bộ thành phần và chất lượng danh mục tín dụng. Đơn vị cần có hệ thống giám sát chất lượng của toàn bộ danh mục tín dụng phù hợp với tính chất, quy mô và tính phức tạp của danh mục tín dụng.

Năm là, phân tích từng đối tượng khách hàng thường xuyên và chủ động: Cán bộ tín dụng phải theo dõi tình hình khách hàng trước, trong và sau khi cấp vốn vay. Cán bộ tín dụng cần phải thực hiện nghiêm các quy trình nghiệp vụ, không nên chỉ tin vào thông tin khách hàng thường xuyên và đánh giá thông tin thu được có mức chính xác là bao nhiêu. Nhất là sau khi đã giải ngân cho khách hàng, cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay. Phân tích chủ động đòi hỏi cán bộ tín dụng phải tìm kiếm các thông tin mà không bao giờ khách hàng muốn cung cấp cho ngân hàng. Ngân hàng cần chuyên môn hóa khâu cho vay. Việc phân tích, đánh giá khách hàng nên thực hiện định kỳ trên cơ sở quyết toán của DN.

Sáu là, thực hiện sàng lọc khách hàng trước khi cho vay và xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng: Sự lựa chọn, tìm kiếm đối tượng trong thị trường cho vay đòi hỏi ngân hàng phải sàng lọc và lựa chọn. Để phòng ngừa RRTD, ngân hàng phải lựa chọn những khách hàng vay có triển vọng tốt ra khỏi những người vay có triển vọng xấu. Muốn cho việc sàng lọc khách hàng vay có hiệu quả, ngân hàng phải tập trung các thông tin tin cậy về những người vay tiền, lịch sử vay tiền của khách hàng. Đối với nghiên cứu khoa học, Ngân hàng cần tập hợp các thông tin về tuổi tác, thu nhập, tài sản, những khoản tiền đã vay, những món tiền vay còn tồn đọng.

Bảy là, hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng: Hệ thống thông tin tín dụng đóng vai trò quan trọng trong quá trình thẩm định và ra quyết định cho vay của cán bộ tín dụng, góp phần lựa chọn khách hàng và phòng ngừa RRTD. Hiện nay, trong thẩm định vay vốn của ngân hàng còn hạn chế nguyên nhân chủ yếu là thiếu thông tin để phân tích, đánh giá về khách hàng vay vốn. Thông tin trong bộ hồ sơ vay vốn của khách hàng còn thiếu, nhất là các báo cáo tài chính. Thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước cũng thiếu nhiều dữ liệu cần thiết và chưa cập nhật về khách hàng. Để nâng cao chất lượng thông tin phục vụ công tác tín dụng, Chi nhánh cần thực hiện tốt thiết lập hệ thống thông tin đa dạng từ nhiều nguồn khác nhau; quản lý thông tin khoa học, thuận tiện cho việc tìm kiếm thông tin.

Kết luận

Trong những năm gần đây, PVcomBank – Chi nhánh An Giang đã có những chuyển biến tích cực trong công tác quản lý RRTD. PVcomBank – Chi nhánh An Giang đã nỗ lực đổi mới, phát triển hoạt động kinh doanh của đơn vị. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích thực trạng quản lý RRTD tại PVcomBank – Chi nhánh An Giang, bài viết đánh giá chung về quản lý RRTD, đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý RRTD tại PVcomBank – Chi nhánh An Giang giai đoạn đến năm 2023. Hy vọng những giải pháp nêu trên góp phần nâng cao hiệu quả quản lý RRTD, hoạt động kinh doanh của PVcomBank – Chi nhánh An Giang, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương và đất nước.   

Tài liệu tham khảo:

1. Ngân hàng Nhà nước (2005), Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 về phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng;

2. Ngân hàng Nhà nước (2014), Thông tư số 01/2014/TT-NHNN ngày 31/03/2014 về quy định phân loại tài sản có, mục đích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;

3. PVcomBank – Chi nhánh An Giang, Báo cáo thường niên các năm 2016, 2017 và 2018;

4. Bùi Diệu Anh (2013), Giáo trình Hoạt động kinh doanh ngân hàng, NXB Phương Đông;

5. Dương Hữu Hạnh (2012), Quản trị rủi ro ngân hàng, NXB Lao động;

6. Lê Văn Độ (2007), Quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại nhà nước thời kỳ hội nhập, Tạp chí Ngân hàng, 76 (15), tr.20-27;

7. Nguyễn Văn Tiến (2010), Giáo trình Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, NXB Thống kê;

8. Nguyễn Liên Hà (2008), Hiệp ước Basel mới và vấn đề kiểm soát rủi ro trong các ngân hàng thương mại, Tạp chí Phân tích kinh tế;

9. Sử Đình Thành, Vũ Thị Minh Hằng (2008), Nhập môn Tài chính – Tiền tệ, NXB Lao động – Xã hội;

10. Bank for International Settlements (BIS) (1999), Principles for the Management of Credit Risk - consultative document.