Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối cảnh mới


Ước tính trong giai đoạn 2015-2017, khu vực kinh tế tư nhân (trong đó doanh nghiệp tư nhân có vai trò chủ đạo) đóng góp gần 50% GDP, trên 30% thu ngân sách nhà nước, 45% vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Tốc độ tăng năng suất lao động của khu vực này tương đối ổn định. Dù có đóng góp lớn cho nền kinh tế nhưng hiện nay doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn rất khó tiếp cận các nguồn vốn như: vốn tín dụng từ các ngân hàng, nguồn vốn từ các quỹ… để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh.

Đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp

Thời gian qua, Chính phủ đã không ngừng triển khai thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, hoàn thiện khung pháp lý với những tư tưởng đổi mới mạnh mẽ, tạo động lực cho doanh nghiệp (DN) phát triển. Điển hình, trong năm 2014, Chính phủ trình và Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư và Luật DN (sửa đổi) nhằm tạo sự thay đổi tích cực môi trường đầu tư kinh doanh. Cùng với đó, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Phá sản, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật thuế Thu nhập DN và hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật/đã được ban hành, tác động tích cực tới cộng đồng DN.

Đồng thời, Chính phủ đã chỉ đạo, đôn đốc triển khai quyết liệt các giải pháp đẩy mạnh công tác cải cách hành chính tạo sự chuyển biến, nâng cao chất lượng phục vụ của Chính phủ, chính quyền các cấp đối với người dân và DN, xoá bỏ mọi rào cản, đảm bảo quyền tự do bình đẳng kinh doanh của cá nhân và DN. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết số 19/NQ-CP về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 và Chỉ thị số 26/CT-TTg về hỗ trợ và phát triển DN đến năm 2020; Nghị quyết số 75/NQ-CP về cắt giảm mức phí, chi phí cho DN; Nghị quyết số 98/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân... Đồng thời, Chính phủ cũng đẩy mạnh thực hiện các giải pháp nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, minh bạch cho mọi thành phần kinh tế, chú trọng công tác trợ giúp phát triển DN nhỏ và vừa (DNNVV).

Để tiếp tục nâng cao hiệu lực pháp lý, đẩy mạnh thực hiện các chính sách hỗ trợ DNNVV, tại Kỳ họp thứ 3 Khóa XIV, Quốc hội đã thông qua Luật Hỗ trợ DNNVV (Luật số 04/2017/QH14). Luật có hiệu lực thi hành từ 01/01/2018, với hàng loạt chính sách hỗ trợ cơ bản dành cho các DNNVV như: Hỗ trợ tiếp cận tín dụng, thông tin, phát triển nguồn nhân lực, tư vấn, công nghệ... đã tạo bước tiến quan trọng trong công tác hoàn thiện chính sách hỗ trợ tích cực cho DNNVV phát triển mạnh mẽ hơn.

Số lượng doanh nghiệp gia tăng mạnh

Việc ban hành hàng loạt cơ chế, chính sách trên đã tạo sự chuyển biến mạnh trong cộng đồng DNNVV. Tính chung trong giai đoạn 2011-2016, cả nước có 504.073 DN đăng ký thành lập mới. Giai đoạn 2011-2014, số DN đăng ký thành lập mới có suy giảm, tuy nhiên, đến năm 2015 - 2016, số DN thành lập mới, quay trở lại hoạt động gia tăng mạnh mẽ.

Sự gia tăng trở lại này trùng với thời điểm Luật DN 2014 và Luật Đầu tư 2014 chính thức có hiệu lực từ tháng 7/2015. Thực tế, Luật DN và Luật Đầu tư 2014 tạo cơ chế thông thoáng, tác động trực tiếp, thuận lợi cho DN trong quá trình kinh doanh, khi DN có quyền tự quyết về số lượng, hình thức, nội dung của con dấu; được tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm; Đồng thời, thời gian đăng ký thành lập DN đã được rút ngắn còn 03 ngày. Năm 2017, số DN đăng ký thành lập mới đạt 126.859 DN; có 26.448 DN quay trở lại hoạt động. Tổng số vốn đăng ký vào nền kinh tế trong năm 2017 đạt 3.165.233 tỷ đồng, gồm: Số vốn đăng ký của DN đăng ký thành lập mới là 1.295.911 tỷ đồng và số vốn đăng ký tăng thêm của các DN thay đổi tăng vốn là 1.869.322 tỷ đồng với 35.276 lượt DN đăng ký bổ sung vốn.

Năm 2017, số DN đăng ký thành lập mới đạt 126.859 DN; có 26.448 DN quay trở lại hoạt động. Tổng số vốn đăng ký vào nền kinh tế trong năm 2017 đạt 3.165.233 tỷ đồng, gồm: Số vốn đăng ký của DN đăng ký thành lập mới là 1.295.911 tỷ đồng và số vốn đăng ký tăng thêm của các DN thay đổi tăng vốn là 1.869.322 tỷ đồng với 35.276 lượt DN đăng ký bổ sung vốn.

Song song với những nỗ lực cải cách thủ tục hành chính, việc cắt giảm chi phí khởi sự kinh doanh cho DN cũng được các bộ, ngành chú trọng. Riêng lĩnh vực đăng ký DN, kể từ ngày 20/1/2018, lệ phí đăng ký DN được giảm 50% so với quy định trước đây và miễn phí 100% lệ phí đối với trường hợp DN đăng ký qua mạng điện tử.

Tính chung trong 9 tháng năm 2018, cả nước có 96.611 DN thành lập mới với số vốn đăng ký là 963.411 tỷ đồng, tăng 2,8% về số DN và tăng 6,7% về số vốn đăng ký. Riêng trong quý III/2018, cả nước có 32.080 DN thành lập mới, giảm 15% so với quý II/2018 và giảm 1,9% so với cùng kỳ năm 2017. Tỷ trọng vốn đăng ký bình quân trên một DN đạt 10,0 tỷ đồng, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2017. Số lao động đăng ký của các DN thành lập mới là 819.742 lao động, giảm 7,5% so với cùng kỳ năm 2017. Số DN quay trở lại hoạt động là 22.897 DN, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2017. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế là 2.845.331 tỷ đồng, tăng 32,7% so với cùng kỳ năm 2017, bao gồm: 936.411 tỷ đồng của DN đăng ký thành lập mới (tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2017) và 1.881.920 tỷ đồng (tăng 51,6%) thông qua 32.144 lượt đăng ký tăng vốn của các DN đang hoạt động (tăng 16,6%).

Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa  trong bối cảnh mới - Ảnh 1

Cùng với sự bùng nổ về số lượng, DNNVV đã góp phần quan trọng trong chuyển dịch về cơ cấu ngành nghề thông qua tạo việc làm, thu hút lao động từ lĩnh vực nông nghiệp, tham gia đầu tư vào các thị trường ngách, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. DNNVV đã thể hiện vai trò và những đóng góp quan trọng thúc đẩy sự chuyển mình và cất cánh của nền kinh tế. Ước tính trong giai đoạn 2015-2017, khu vực kinh tế tư nhân (trong đó DN tư nhân có vai trò chủ đạo) đóng góp gần 50% GDP, trên 30% thu ngân sách nhà nước, 45% vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội. Tốc độ tăng năng suất lao động (NSLĐ) của khu vực này tương đối  ổn định. Mặc dù những năm gần đây, tốc độ tăng NSLĐ của cả nước liên tục có những biến động thì tốc độ tăng NSLĐ của khu vực kinh tế tư nhân trong đó chủ yếu là DN tư nhân vẫn ổn định hơn so với các khu vực kinh tế nhà nước và khu vực FDI, xung quanh mức 4,8%-5,8%...

Một số tồn tại, hạn chế

Dù có đóng góp lớn cho nền kinh tế nhưng hiện nay DNNVV vẫn rất khó tiếp cận các nguồn vốn như: vốn tín dụng từ các ngân hàng (NH), nguồn vốn từ các quỹ… để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Theo Báo cáo đánh giá môi trường kinh doanh năm 2018 của Ngân hàng Thế giới, chỉ số tiếp cận tín dụng của Việt Nam năm 2018 được xếp hạng 29/190 nền kinh tế. Cùng với đó, 6 tháng đầu năm 2018 (tính đến 30/6/2018), dư nợ tín dụng đối với DNNVV chiếm khoảng 21% dư nợ toàn nền kinh tế. Đến nay vẫn có khoảng 60% DNNVV chưa tiếp cận được nguồn vốn tín dụng của ngân hàng.

Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa  trong bối cảnh mới - Ảnh 2

Bên cạnh đó, sự liên kết của các DN tư nhân Việt Nam còn yếu, đặc biệt là có rất ít mối liên kết giữa các DN nhỏ và DN có quy mô lớn hơn. Theo Báo cáo triển vọng phát triển châu Á của Ngân hàng Phát triển châu Á, hiện nay mới chỉ có 21% các DNNVV của Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu so với 30% của Thái Lan và 46% của Malaysia.

Sự hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân ở Việt Nam chủ yếu là sau một giai đoạn tích lũy ngắn, dựa vào vốn tự có và ít được Nhà nước hỗ trợ. Quá trình phát triển theo mô hình tập đoàn của nhóm các tập đoàn kinh tế tư nhân hiện gặp phải một số khó khăn về quản trị, mô hình, do phần lớn phát triển từ quy mô DN gia đình. Các liên kết trong mô hình tập đoàn còn khá đơn giản, chưa triển khai được các hình thức liên kết “mềm” khác thông qua thỏa thuận, hợp tác sử dụng thương hiệu, dịch vụ, kết quả nghiên cứu đổi mới, ứng dụng khoa học, công nghệ chung trong tập đoàn theo nguyên tắc thị trường. Lĩnh vực hoạt động của các tập đoàn kinh tế và DN thuộc khu vực tư nhân mới chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực như dịch vụ, bất động sản… Vì vậy, còn thiếu vắng một lực lượng DN “đầu tàu” đủ mạnh để có thể dẫn dắt “đoàn tàu” DN Việt Nam tham gia chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế.

Do phần lớn DN Việt Nam hiện có quy mô nhỏ nên rất khó tăng năng suất lao động nhờ chuyên môn hóa hay tận dụng lợi thế quy mô được. Mặt khác, vì quy mô nhỏ nên khả năng tích tụ và tập trung vốn để đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất hầu như không có. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của DNNVV, nhất là trong môi trường hội nhập hiện nay.

Giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối cảnh mới

Nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ DN đầu tư, mở rộng phát triển sản xuất - kinh doanh cần có nhiều giải pháp đồng bộ hỗ trợ DNNVV. Cụ thể:

Thứ nhất, tiếp tục, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật. Nhóm giải pháp này nhằm mục đích cải thiện đáng kể môi trường kinh doanh cho DN, tạo thuận lợi tối đa cho các DN khi tham gia vào thị trường trong nước và ngoài nước, đồng thời, đây cũng là nhóm giải pháp hỗ trợ trực tiếp cho sự phát triển của DNNVV tại Việt Nam.

Theo đó, cần xác định rõ các chủ trương, định hướng chiến lược phát triển của cộng đồng DNNVV trong các Văn kiện của Đại hội Đảng, các Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế thị trường của Quốc hội, Chính phủ với những nội dung quan trọng như: Thúc đẩy sự  phát triển kinh tế tư nhân, nâng cao năng lực sản xuất của DN; Hoàn thiện khung pháp lý và phạm vi hỗ trợ DNNVV phát triển trong nước, hội nhập quốc tế, với những nội dung như: Xác định rõ khuôn khổ về gia nhập, hoạt động và giải thể, phá sản của DN Việt Nam; Hỗ trợ công nghệ, khoa học kỹ thuật cho DN Việt Nam; Phát triển nguồn nhân lực cho các DNNVV, tập trung vào nâng cao năng lực quản trị; Đẩy mạnh hình thành nhóm DN Việt Nam; Cung cấp thông tin hỗ trợ DNNVV và xúc tiến mở rộng thị trường; Xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp phát triển; Tổ chức thực hiện các Chương trình liên quan đến sự phát triển như DN Việt Nam...

Đồng thời, cần triển khai hiệu quả, đồng bộ Luật Hỗ trợ DNNVV và các chính sách hỗ trợ đã ban hành; đẩy mạnh hoạt động của Quỹ Bảo lãnh DNNVV và Quỹ Phát triển DNNVV. Song song với đó, phát triển cân bằng thị trường tài chính (nhất là thị trường chứng khoán, trái phiếu, tài chính vi mô, quỹ đầu tư…) để tạo kênh dẫn vốn đa dạng cho DNNVV…

Thứ hai, phát huy vai trò của xã hội, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp thúc đẩy sự phát triển của DNNVV, nâng cao ý thức của cộng đồng xã hội đối với sự phát triển của DNNVV tại Việt Nam. Theo đó, cần nâng cao vai trò, năng lực của các Hiệp hội nhằm hỗ trợ DNNVV và tăng cường chức năng tham vấn và phản biện xã hội. Mặt khác, tăng cường tiếp nhận các phản hồi, ý kiến, nhu cầu từ người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của DNNVV để tự hoàn thiện DN hơn trong hoạt động kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ đến khách hàng bằng các giải pháp như: nâng cao trách nhiệm xã hội, trách nhiệm kinh doanh của DN đối với người tiêu dùng; cân bằng lợi ích của thương nhân và người tiêu dùng.

Thứ ba, bản thân mỗi DNNVV phải nêu cao ý thức vươn lên, phát huy lợi thế, nâng cao sức cạnh tranh của mình. DNNVV Việt Nam có nhiều lợi thế về kinh doanh, phạm vi thị trường, khách hàng để tham gia vào hoạt động thương mại trong nước, khu vực và quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) thì việc tận dụng những lợi thế vốn có của DNNVV sẽ thúc đẩy sự phát triển lớn mạnh về kinh tế đất nước trong khu vực Đông Nam Á. 

Sự liên kết của các DN tư nhân Việt Nam còn yếu, đặc biệt là có rất ít mối liên kết giữa các DN nhỏ và DN có quy mô lớn hơn. theo Báo cáo triển vọng phát triển châu Á của Ngân hàng Phát triển châu Á, hiện nay mới chỉ có 21% các DNNVV của Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu so với 30% của Thái Lan và 46% của Malaysia.

Việc nắm bắt nhu cầu, tâm lý của khách hàng hoặc nhóm khách hàng phù hợp với loại hình, ngành nghề kinh doanh của mỗi DN cũng là một giải pháp mà các DNNVV có thể thực hiện được và tạo ra những kết quả khả quan. Bên cạnh đó, DN cần có chiến lược phát triển thông qua các kế hoạch, chiến lược, tầm nhìn, sứ mệnh hoạt động cụ thể. Một giải pháp cũng được áp dụng đối với DNNVV đó là xây dựng tầm nhìn trong sự phát triển của DN mình bằng việc xác định rõ các vấn đề về kinh tế, khách hàng, sự cạnh tranh, định hướng tương lai, triển vọng của DN, tính chuyên môn hóa cao trong tiếp xúc với khách hàng, uy tín, thương hiệu và giá trị cốt lõi mà mỗi DN cung cấp cho thị trường, xã hội...

Để hạn chế tối đa các thất bại như buộc phải giải thể, tự giải thế, tình trạng kinh doanh bị trì trệ, tạm ngưng hoạt động, các DNNVV cần phải xác định được phạm vi và đối tượng mà mình hướng tới. Nói cách khác, trên cơ sở quy mô, tiềm lực, loại hình hoạt động, các DNNVV cần có chiến lược phù hợp trong việc lựa chọn thị trường, phân khúc thị trường để khai thác, kinh doanh. Chọn lựa phân khúc thị trường phù hợp là một giải pháp và đồng thời cũng là sự chuẩn bị kỹ lưỡng, an toàn cho sự phát triển ổn định của mỗi DN. Mặt khác, mỗi DN cần khai thác hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ, thúc đẩy cho sự phát triển như: các giải pháp hỗ trợ từ nhà đầu tư trong và ngoài nước; các chính sách, kế hoạch hỗ trợ của Nhà nước về nguồn vốn, tài chính, công nghệ, quản trị, kinh doanh... Đồng thời, sự liên minh, liên kết của nhóm DN kinh doanh, hoạt động cùng ngành nghề dưới các hình thức như hợp tác kinh doanh, liên doanh, liên danh... cũng là một giải pháp phù hợp nhằm phát huy vai trò, thế mạnh của mình.

Trong bối cảnh hộp nhập, để nâng cao năng lực cạnh tranh, ngoài các giải pháp trên, DNNVV cũng cần biết tận dụng tối đa những tiềm lực về vốn, nhân lực, thị trường, văn hóa, kinh nghiệm kinh doanh của các DN... Đây chính là sự tự thân vận động quan trọng của mỗi DNNVV trong kế hoạch thực hiện các chiến lược, mục tiêu kinh doanh của mình cùng với các đối thủ nặng ký trên thị trường. Hiểu về đối thủ và cân bằng hài hòa được các lợi ích với đối thủ trong kinh doanh sẽ tạo những cơ hội phát triển ổn định cho các DNNVV. Điều đó đồng nghĩa rằng, các DNNVV cần biết cách giữ mối quan hệ tốt đẹp với các DN lớn trong bối cảnh thị trường cạnh tranh khốc liệt. Đặc biệt, các DNNVV cần minh bạch hoạt động và báo cáo tài chính, nâng cao chất lượng quản trị DN, quản lý rủi ro…

Trong những năm gần đây, xu thế kinh tế của quốc tế và khu vực Đông Nam Á đã có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Điều này khiến DNNVV phải đối mặt với sự khác biệt về nhiều khía cạnh liên quan đến hoạt động kinh doanh, thương mại như tư duy kinh doanh, nhận thức, niềm tin, tâm lý khách hàng, văn hóa ứng xử... Do vậy, mỗi DN nói riêng cần sử dụng có hiệu quả các giải pháp hỗ trợ của Nhà nước, của cộng đồng xã hội và của chính bản thân các DNNVV.