Quản lý hoạt động thương mại điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu ở Việt Nam

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 04/2020

Trong nền kinh tế số và hội nhập toàn cầu, thương mại điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là xu hướng tất yếu. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh thương mại điện tử ở Việt Nam trong các năm qua chứng kiến sự bùng nổ và có bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, quy mô thu hút nhiều doanh nghiệp, cá nhân tham gia cũng đã và đang đặt ra nhiều thách thức đối với cơ quan quản lý nhà nước, đòi hỏi cần có các quy định cụ thể để thực hiện việc quản lý. Trước thực trạng này, ngày 27/3/2020, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 431/QĐ-TTg phê duyệt Đề án quản lý hoạt động thương mại điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Tiềm năng và thách thức từ xu thế bùng nổ thương mại điện tử

Việt Nam hiện là một trong những quốc gia có tiềm năng phát triển ngành Thương mại điện tử (TMĐT) nhất khu vực châu Á. Số liệu thống kê cho thấy, hiện nay có đến 70% người dân Việt Nam tiếp cận với internet, đây là động cơ thúc đẩy mảng TMĐT phát triển mạnh mẽ. Số liệu thống kê của Nielsen Việt Nam và Tập đoàn Miniwatts Marketing cho thấy, doanh thu TMĐT của Việt Nam năm 2018 đạt tới 8 tỷ USD, tăng hơn 30% so với năm 2017. Theo Sách trắng TMĐT Việt Nam 2019, mức tăng trưởng của thị trường TMĐT Việt Nam đang cao nhất trong 3 năm trở lại đây. Vai trò của TMĐT cũng dần trở nên quan trọng hơn khi tỷ trọng doanh thu từ TMĐT trên tổng mức bán lẻ hàng hóa cả nước năm 2019 đạt 4,2%, tăng 0,6% so với năm 2018. Số lượng người tham gia mua sắm trực tuyến trên các nền tảng TMĐT cũng tăng vọt. Năm 2019, cả nước có 39,9 triệu người tham gia mua sắm trực tuyến, tăng 11,8% so với năm 2018 và tăng gần gấp đôi chỉ sau 3 năm. Giá trị mua sắm trực tuyến bình quân đầu người đạt 202 USD, tăng 8,6%. Với tốc độ tăng trưởng khoảng 30%/năm, dự báo đến năm 2020, doanh thu TMĐT tại Việt Nam sẽ đạt khoảng 15 tỷ USD.

Theo Sách trắng thương mại điện tử Việt Nam 2019, mức tăng trưởng của thị trường thương mại điện tử Việt Nam đang cao nhất trong 3 năm trở lại đây. Vai trò của thương mại điện tử cũng dần trở nên quan trọng hơn khi tỷ trọng doanh thu từ thương mại điện tử trên tổng mức bán lẻ hàng hóa cả nước năm 2019 đạt 4,2%, tăng 0,6% so với năm 2018. Số lượng người tham gia mua sắm trực tuyến trên các nền tảng thương mại điện tử cũng tăng vọt.

Tuy nhiên, theo Bộ Công Thương, hoạt động kinh doanh TMĐT trong các năm qua chứng kiến sự bùng nổ và có bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, quy mô thu hút nhiều doanh nghiệp (DN), cá nhân tham gia nhưng cũng đã và đang đặt ra nhiều thách thức đối với cơ quan quản lý nhà nước. Giao dịch TMĐT qua biên giới đang rất dễ dàng và thiếu sự kiểm soát. Thực tế thời gian qua cho thấy, tình trạng kinh doanh, buôn bán hàng cấm, hàng giả, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng kém chất lượng công khai trên các trang wesite TMĐT, sàn giao dịch TMĐT, mạng xã hội… gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội, niềm tin của người tiêu dùng.

Nguyên nhân của tình trạng này do các cơ quan quản lý hiện chưa nhận diện được hết các thủ đoạn kinh doanh trên TMĐT, nên chưa kiểm soát được tình hình gian lận. Hệ thống văn bản pháp luật chưa theo kịp sự phát triển công nghệ, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Việc kiểm tra, xử lý của cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn, do việc xử lý đòi hỏi phải có dấu hiệu, chứng cứ vi phạm cụ thể. …

Hiện nay, để quản lý TMĐT, đã có hàng loạt quy định được xây dựng trong Luật Giao dịch TMĐT, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về TMĐT, Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng, Luật An ninh mạng, Luật Quản lý thuế… Tuy nhiên, các quy định này chưa đầy đủ, chưa đồng bộ nên các bên tham gia hoạt động TMĐT, các cơ quan quản lý nhà nước, trực tiếp là Bộ Công Thương và Bộ Tài chính gặp nhiều khó khăn trong việc triển khai thực hiện. Việt Nam chưa có các quy định riêng đối với hàng hóa được xuất khẩu, nhập khẩu theo các giao dịch TMĐT. Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo các giao dịch TMĐT phải thực hiện các thủ tục kiểm tra chuyên ngành, thủ tục hải quan, áp dụng chính sách thuế được thực hiện như đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thông thường, dẫn đến nhiều vướng mắc, khó khăn cho hoạt động TMĐT xuyên biên giới, cụ thể:

- Về phía cơ quan hải quan: Áp lực về thời gian thực hiện thông quan, thu thập thông tin người xuất khẩu, nhập khẩu. Ngoài ra, do hàng hóa được thanh toán qua mạng internet nên người khai hải quan có thể không xuất trình được chứng từ thanh toán do thực hiện thanh toán điện tử qua các thẻ thông minh, hoặc phải qua ngân hàng để xin các thông tin sao kê thay cho chứng từ thanh toán. Trong một số trường hợp người khai hải quan lại khai báo là quà biếu, quà tặng thay vì khai báo việc giao dịch bằng TMĐT. Điều này gây nhiều khó khăn cho cơ quan hải quan trong công tác quản lý, công tác thống kê số liệu, công tác thu thập thông tin phục vụ việc quản lý rủi ro, công tác lợi dụng chính sách để gian lận thương mại...

- Về phía các sàn giao dịch TMĐT tại Việt Nam hoặc các đơn vị là đại lý vận chuyển, làm thủ tục hải quan cho các sàn giao dịch TMĐT tại nước ngoài: Gặp các khó khăn trong việc mua ngoại tệ, thanh toán do các quy định hiện hành còn yêu cầu nhiều loại giấy tờ mà TMĐT không có như hợp đồng ngoại thương, xác nhận giao/nhận hàng hóa…

- Về phía người khai hải quan: Người khai hải quan gặp khó khăn do không xuất nhập khẩu thường xuyên (thậm chí chỉ thực hiện một lần duy nhất), nên thường không có kiến thức, kinh nghiệm về việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, chính sách mặt, quy trình, thủ tục khai báo hải quan…

Một số kiến nghị, đề xuất

Theo Tổng cục Hải quan, khi TMĐT qua biên giới phát triển mạnh mẽ, các cơ quan quản lý nhà nước phải đối mặt với các vấn đề như thiếu thông tin, khai báo không chính xác; Khó ngăn chặn các lô hàng cấm; Hàng hạn chế nhập khẩu, xuất khẩu; Hàng buôn lậu do số lượng hàng hóa gửi nhỏ lẻ trong khi chất lượng thông tin; Dữ liệu trước về hàng hóa không có nhiều; Khó kiểm soát chống gian lận về phân loại và xuất xứ hàng hóa để được hưởng các mức thuế suất ưu đãi đặc biệt… Trước tình hình đó, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan) đã lấy ý kiến Dự thảo Đề án quản lý hoạt động TMĐT đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Ngày 27/3/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 431/QĐ-TTg phê duyệt Đề án quản lý hoạt động TMĐT đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, nhằm xây dựng một hệ thống để tiếp nhận, xử lý thông tin liên quan đến hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu giao dịch TMĐT trên nền cơ chế một cửa quốc gia, cơ chế một cửa ASEAN, tạo điều kiện thuận lợi trong việc kiểm soát giao dịch, tăng tốc độ thông quan hàng hóa do có đầy đủ cơ sở dữ liệu....

Nhằm triển khai thực hiện Quyết định số 431/QĐ-TTg, góp phần tăng cường quản lý hoạt động TMĐT đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, cần chú trọng một số vấn đề trọng tâm sau:

Một là, hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến hoạt động TMĐT đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

Đối với thủ tục hải quan, tiếp tục thực hiện đơn giản, nhanh chóng, đảm bảo quản lý của cơ quan hải quan, thu đúng, thu đủ thuế xuất khẩu, nhập khẩu, phòng chống gian lận thương mại. Cần sớm ban hành quy định các đối tượng có liên quan tham gia/dừng tham gia vào Hệ thống quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu giao dịch qua TMĐT;  Quy định các đơn vị cung cấp trước thông tin về đơn hàng/thông tin về vận chuyển lô hàng đến Hệ thống quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu giao dịch qua TMĐT… Đối với việc cấp phép, điều kiện, kiểm tra chuyên ngành, cần bổ sung quy định về việc miễn giấy phép, miễn điều kiện, miễn kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa phải cấp phép, điều kiện, kiểm tra chuyên ngành trong trường hợp có trị giá hải quan từ 1 triệu đồng trở xuống hoặc trên 1 triệu đồng… Bên cạnh đó, có quy định về việc thời gian cập nhật kết quả kiểm tra chuyên ngành. Kết quả kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được giao dịch qua TMĐT cần được cập nhật trên Hệ thống xử lý chậm nhất 02 giờ làm việc sau khi có kết quả kiểm tra chuyên ngành nhưng không chậm hơn thời gian thông báo kết quả kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đang triển khai thực hiện.

Hai là, xây dựng cơ sở dữ liệu liên quan đến hoạt động TMĐT đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

Để đảm bảo có cơ sở dữ liệu để thực hiện việc quản lý đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được giao dịch qua TMĐT cần thiết phải xây dựng một Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu giao dịch qua TMĐT có các đặc điểm: Hệ thống được xây dựng nằm trong Hệ thống tổng thể quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; Tiếp nhận, lưu giữ thông tin liên quan đến các giao dịch TMĐT; Cập nhật các thông tin về các sàn giao dịch TMĐT, website TMĐT bán hàng và các cơ chế, chính sách quản lý về TMĐT; Xử lý các thông tin được tiếp nhận và chia sẻ thông tin đến Hệ thống khác phục vụ nhu cầu quản lý…

Ba là, xây dựng chính sách quản lý giao dịch trong hoạt động TMĐT và xây dựng cơ chế thanh toán, bảo lãnh điện tử.

Các bộ, ngành liên quan khẩn trương, chủ động rà soát danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải cấp phép, điều kiện, kiểm tra chuyên ngành để đưa vào danh mục hàng hóa được miễn cấp phép, điều kiện, kiểm tra chuyên ngành khi giao dịch qua TMĐT. Xây dựng quy trình về việc cập nhật kết quả cấp phép, điều kiện, kiểm tra chuyên ngành đảm bảo đúng tiến độ về thời gian cập nhật; Phối hợp theo dõi cấp phép, cập nhật thông tin trên Hệ thống quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

- Về phía Bộ Tài chính: Chủ trì xây dựng Nghị định trình Chính phủ ban hành về quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu được giao dịch qua TMĐT; Xây dựng, hoàn thiện Hệ thống quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu giao dịch qua TMĐT; Thường xuyên phối hợp đánh giá hiệu quả của công tác quản lý hoạt động TMĐT để có những điều chỉnh thích hợp.

- Về phía Ngân hàng Nhà nước: Thực hiện nghiên cứu, đánh giá, đề xuất về cơ chế thanh toán, bảo lãnh điện tử liên quan đến các giao dịch trong hoạt động TMĐT đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới. Bên cạnh đó, rà soát, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật không còn phù hợp liên quan đến việc thanh toán, chuyển tiền, thu thuế xuất khẩu nhập khẩu phục vụ cho các giao dịch TMĐT đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

- Về phía Bộ Công Thương: Chủ động xây dựng chính sách quản lý các giao dịch trong hoạt động TMĐT đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu…         

Tài liệu tham khảo:

1. Chính phủ (2020), Quyết định số 431/QĐ-TTg phê duyệt Đề án quản lý hoạt động thương mại điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;

2. Bộ Công Thương (2019), Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam 2019;

3. Tổng cục Hải quan (2019), Đề án quản lý hoạt động Thương mại điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;

4. Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử Việt Nam 2019;

5. Việt Hoàng (2019), "Siết" quản lý hoạt động Thương mại điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, Tạp chí điện tử Tài chính.