Doanh nghiệp nhà nước “ế” cổ đông chiến lược: Do đâu?

Theo Kim Hiền/kinhtevadubao.vn

Các nguyên nhân có thể kể ra, đó là: khống chế tỷ lệ sở hữu của cổ đông chiến lược nước ngoài; định giá doanh nghiệp và giá cổ phiếu còn bất hợp lý; thiếu công khai, minh bạch thông tin; quy trình phức tạp và phương thức bán cổ phần thiếu linh hoạt…

Một trong những vấn đề nhà đầu tư quan tâm là công khai thông tin không tốt, định giá DNNN không minh bạch. Nguồn: internet
Một trong những vấn đề nhà đầu tư quan tâm là công khai thông tin không tốt, định giá DNNN không minh bạch. Nguồn: internet

Ngày 30/10/2017, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức hội thảo công bố báo cáo  “Cổ đông chiến lược trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước”.

Nhà đầu tư “dè dặt” với cổ phiếu của DNNN

Báo cáo “Cổ đông chiến lược trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước” của CIEM cho biết, từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã thực hiện cổ phần hóa trên 4.500 doanh nghiệp, nhưng chất lượng chưa cao, một số mục tiêu chưa đạt được, trong đó có mục tiêu bán cổ phần cho các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư chiến lược tham gia cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước với mức độ thấp hơn kỳ vọng.

Theo báo cáo của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, kết quả bán cổ phần trên thực tế chưa đạt mục tiêu giảm vốn Nhà nước và thu hút vốn đầu tư tư nhân. Nhà nước vẫn nắm giữ 81% vốn. Tỷ lệ tham gia của các nhà đầu tư bên ngoài chỉ đạt 9,5% (so với kế hoạch là 16,7%), nhà đầu tư chiến lược là 7,3% (so với kế hoạch là 15,8%).

Đáng chú ý, đa số các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước được đánh giá là hấp dẫn cũng vẫn chưa thu hút được cổ đông chiến lược.

Cụ thể, báo cáo được nghiên cứu từ 46 tổng công ty phê duyệt phương án cổ phần hóa giai đoạn 2011-2016 cho thấy, tổng vốn điều lệ của 46 tổng công ty đạt 171.225 tỷ đồng, trong đó tổng vốn điều lệ do Nhà nước nắm giữ là 124.835 tỷ đồng, chiếm 73% vốn điều lệ, phê duyệt bán cho cổ đông chiến lược là 28.369 tỷ đồng, chiếm 16,57% vốn điều lệ.

Trong số 46 doanh nghiệp này, có 14 doanh nghiệp (chiếm 30,4%) trong phương án cổ phần hóa không bán cho nhà đầu tư chiến lược; 2 doanh nghiệp (chiếm 4,4%) bán cổ phần hóa cho nhà đầu tư chiến lược với tỷ lệ cao hơn phương án được phê duyệt;

17 doanh nghiệp (chiếm 37%) bán hết số cổ phần cho cổ đông chiến lược theo tỷ lệ được phê duyệt; 9 doanh nghiệp (chiếm 19,6%) không bán được cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược và 4 doanh nghiệp còn lại (chiếm 8,7%) không bán hết số cổ phần được phê duyệt cho nhà đầu tư chiến lược.

Thực tế trong 28.369 tỷ đồng được phê duyệt bán cho nhà đầu chiến lược, chỉ có 12.762 tỷ đồng đã bán được, chưa đạt đến ½ con số được phê duyệt.

Xét tiếp đến tỷ lệ bán được cho nhà đầu tư nước ngoài, tỷ lệ này rất nhỏ, chỉ chiếm 8,7% (4/46 tổng công ty). Trong đó, phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài mua tỷ lệ cổ phần thấp, cao nhất chỉ là 20%.

Vì sao nên nỗi?

Giải thích nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhà đầu tư dè dặt mua cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước, ông Phạm Đức Trung, Trưởng ban Cải cách và phát triển doanh nghiệp, CIEM cho biết, có 5 nguyên nhân khiến cổ đông chiến lược chưa mặn mà với cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, đó là:

Thứ nhất, khống chế tỷ lệ sở hữu của cổ đông chiến lược nước ngoài làm giảm động lực đầu tư của cổ đông, vì họ không đảm bảo được quyền điều hành, quản trị kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong khi đó, cổ đông trong nước để huy động vốn lên đến hàng nghìn tỷ đồng không phải là câu chuyện đơn giản.

Thứ hai, việc định giá doanh nghiệp và giá cổ phiếu còn bất hợp lý.

Thứ ba, nhiều doanh nghiệp Nhà nước không có sức hấp dẫn đối với cổ đông chiến lược.

Thứ tư, thiếu công khai, minh bạch thông tin.

Thứ năm, quy trình phức tạp, phương thức bán cổ phần thiếu linh hoạt. 

Còn theo ông Adam Sitkoff, Giám đốc Điều hành Phòng Thương mại Mỹ (Amcham) tại Hà Nội cho biết, nhà đầu tư nước ngoài mong muốn được tham gia vào cổ phần hóa tại Việt Nam, nhưng trong quá trình tìm hiểu đầu tư họ phát hiện nhiều vấn đề chưa được giải quyết, nên sự quan tâm đó đã giảm đi.
"Một trong những vấn đề nhà đầu tư quan tâm là công khai thông tin không tốt, định giá doanh nghiệp nhà nước không minh bạch”, ông Adam Sitkoff nhấn mạnh.

Về vấn đề này, nhìn nhận ở góc độ xa hơn, ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM cho rằng, nguyên nhân bao trùm lên tất cả các nguyên nhân được nêu trên là đang có một sự khác biệt lớn về tư duy giữa nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước. Nếu cơ quan quản lý chỉ nhìn theo cách của mình thì chắc chắn cổ phần hóa sẽ không thành công.

“Về mặt tư duy, trong cổ phần hóa nói chung và thu hút nhà đầu tư chiến lược nói riêng cần tư duy thị trường hơn. Tư duy ở đây là theo cách nhìn của một nhà đầu tư hơn là cách nhìn của một cơ quan quản lý nhà nước. Đấy là nguyên nhân bao trùm của những nguyên nhân dẫn tới việc chúng ta chưa thành công trong việc thu hút nhà đầu tư chiến lược trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước”, ông Nguyễn Đình Cung nói.

Cần phải làm gì?

Để thu hút các nhà đầu tư chiến lược, ông Phạm Đức Trung cho rằng, cần quy định tiêu chí rõ ràng minh bạch trong lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, bao gồm cả đối với nhà đầu tư chiến lược quốc tế. Đổi mới cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp và giá bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược. Nâng cao tính công khai, minh bạch thông tin trong quá trình cổ phần hóa. Nâng cao vai trò của nhà đầu tư chiến lược vào quản trị doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Tiếp tục đổi mới, cải thiện quản trị, nâng cao hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước nhằm thu hút nhà đầu tư chiến lược.

Còn theo quan điểm của chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành, việc thu hút cổ đông chiến lược vẫn là một bài toán khó giải ở Việt Nam, bởi: “Nhà đầu tư trong nước có tiềm lực lớn có ý định muốn mua lại doanh nghiệp nhà nước không nhiều. Trong khi, cổ đông nước ngoài muốn mua thì chúng ta lo nguy cơ này kia, một số lĩnh vực mở cửa chừng mực. Vậy thì bao giờ chúng ta mới thu hút được cổ đông chiến lược?”.

Theo đó, ông Thành cho rằng, việc quy định giới hạn tỷ lệ cổ phần với nhà đầu tư chiến lược nước ngoài cần đảm bảo sự công bằng giữa nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và trong nước. Đó là cho phép nhà đâu tư nước ngoài sở hữu tỷ lệ cổ phần giống như các cổ đông trong nước, cho phép họ sở hữu chi phối ở các ngành lĩnh vực không thiết yếu.

Ngoài ra, trong định giá tài sản, thương hiệu, định giá đất, ông Thành cho rằng, cần có sự giám sát chéo giữa các cơ quan, đảm bảo tính độc lập, minh bạch trong quá trình định giá.

Ở góc độ khác, ông Đinh Tuấn Minh, Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách cho rằng, không nên đặt ra các tiêu chí quá cụ thể khi chọn ra các nhà cổ đông chiến lược.

“Tôi cho rằng, không nên đặt ra các tiêu chí “cứng” khi chọn cổ đông chiến lược. Điều này đang cản trở quá trình cổ phần hòa doanh nghiệp nhà nước cũng như tìm kiếm cổ đông chiến lược. Phải coi mỗi cuộc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một vụ đầu tư, là may một cái áo cho doanh nghiệp và không cái áo của doanh nghiệp nào giống doanh nghiệp nào. Nhà nước chỉ nên xây dựng các trình tự, thủ tục, thay vì đặt ra các quy định quá cụ thể”, ông Đinh Tuấn Minh nhấn mạnh.