Đổi mới cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động khoa học xã hội ở Việt Nam

ThS. Đỗ Diệu Hương - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Trong những năm qua, việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách về phát triển khoa học và công nghệ nói chung và cơ chế quản lý tài chính để thúc đẩy tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính cho khoa học xã hội nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng. Điều này đã tạo ra những thay đổi căn bản theo hướng tăng cường nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cả tổ chức khoa học và công nghệ. Bài viết phân tích một số quan điểm của Nhà nước, từ đó đề xuất một số định hướng nhằm đổi mới cơ chế quản lý tài chính trong khoa học xã hội ở nước ta thời gian tới.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Định hướng phát triển khoa học và công nghệ

Trước yêu cầu thực tế ngày càng cao về nâng cao chất lượng của ngành khoa học xã hội (KHXH), việc đổi mới quản lý và hoạt động của các tổ chức KHXH là yêu cầu cần thiết. Trong các cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển KHXH, hệ thống cơ chế, chính sách tài chính có vai trò quan trọng.

Bối cảnh quốc tế mới đang đặt ra những thách thức đối với nghiên cứu khoa học và công nghệ (KH&CN) nói chung, KHXH nói riêng.

Nghiên cứu KHXH trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế nhằm tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn góp phần xây dựng hệ thống quan điểm phát triển đất nước, khẳng định sự hình thành và phát triển dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ các giá trị văn hóa và bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế.

Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thể hiện rõ định hướng phát triển KH&CN đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 với các quan điểm chính sau:

- Phát triển và ứng dụng KH&CN là quốc sách hàng đầu; Là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; Là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước và tài năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ KH&CN đóng vai trò quyết định thành công của sự nghiệp phát triển KH&CN.

- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển KH&CN; Phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế tự chủ của các tổ chức KH&CN phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Đầu tư cho nhân lực KH&CN là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có chính sách phát triển, phát huy và trọng dụng đội ngũ cán bộ KH&CN.

- Tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển KH&CN. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực và nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ... Quan tâm đúng mức hoạt động nghiên cứu cơ bản, tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến của thế giới phù hợp với điều kiện Việt Nam.

- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức KH&CN tiên tiến của thế giới; Thu hút nguồn lực và chuyên gia, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án KH&CN của nước ta; Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và là xu thế tất yếu đối với sự phát triển của thế giới ngày nay, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã cho thấy rõ vai trò quan trọng của nền kinh tế tri thức.

Kinh tế tri thức ngày càng góp phần quan trọng vào những đổi mới về KH&CN trong sản xuất và là nguồn lực cơ bản tạo nên sự tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

KHCN luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng xuất lao động và hiệu quả sản xuất và hiển nhiên trong bối cảnh toàn cầu hóa, lĩnh vực này lại càng chịu ảnh hưởng không nhỏ, nhất là ở các nước đang phát triển như Việt Nam.

Vì vậy, việc đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, đẩy nhanh ứng dụng KH&CN trong phát triển, gắn phát triển nền kinh tế tri thức là yêu cầu tất yếu.

Để làm được điều này cần phải coi phát triển và ứng dụng KH&CN là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc”; Cần xây dựng chiến lược đầu tư cho KH&CN bài bản và dài hạn, đầu tư trọng tâm, trọng điểm hơn cho KH&CN, trong đó có KHXH.

Về quan điểm đổi mới phát triển khoa học công nghệ trong thời gian tới

Định hướng Chiến lược phát triển KH&CN tới năm 2020 tại Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Chính phủ về Phê duyệt Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011 – 2020 thể hiện tập trung ở các khía cạnh sau:

- Tiếp tục coi phát triển KH&CN cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước nhanh và bền vững. KH&CN phải đóng vai trò chủ đạo để tạo được bước phát triển đột phá về lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Tập trung thực hiện đồng bộ 3 nhiệm vụ (đổi mới tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH&CN); Tăng cường tiềm lực KH&CN quốc gia; Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, gắn nhiệm vụ phát triển KH&CN với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành.

- Nhà nước tăng mức đầu tư và ưu tiên đầu tư cho các nhiệm vụ KH&CN quốc gia, các sản phẩm quốc gia. Đẩy mạnh xã hội hoá, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư phát triển KH&CN.

Từ quan điểm hiệu quả, vấn đề đổi mới quản lý tài chính trong hoạt động KHXH cần đáp ứng được những trọng tâm sau:

Thứ nhất, các quy định về cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động KHXH phải đồng bộ, phù hợp, không mâu thuẫn với các quy định khác, làm tăng tính hiệu quả trong quá trình thực thi.

Các quy định về quản lý tài chính trong hoạt động nghiên cứu KHXH cần tuân theo các quy định pháp luật hiện hành về quản lý tài chính, bao gồm: Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Kế toán, kiểm toán và các văn bản khác, các quy định đồng thời phải đồng bộ với nhau.

Đây là yêu cầu bắt buộc, bởi sự mâu thuẫn giữa các quy định pháp lý sẽ gây nên những cản trở làm giảm hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, gia tăng vi phạm, dẫn đến thất thoát, lãng phí.

Thứ hai, các quy định về cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động KHXH phải rõ ràng, cụ thể, đơn giản, dễ dàng áp dụng, hạn chế nhầm lẫn.

Các quy định càng rõ ràng, cụ thể, bám sát điều kiện thực tế thì càng thuận lợi trong quá trình thực thi. Nếu quy định chi tiết thì ranh giới giữa vi phạm và không vi phạm được xác định rõ ràng, tạo sự thuận tiện cho việc thực hiện cũng như giám sát và kiểm soát chi tiêu. Trường hợp ngược lại, các cơ quan quản lý sẽ rơi vào tình trạng “trắng đen lẫn lộn”, khó khăn trong thực thi, làm hiệu quả đầu tư cho khoa học nói chung và cho KHXH nói riêng.

Thứ ba, việc phân cấp quyền quyết định chi tiêu phải thật sự triệt để.

Việc phân cấp triệt quyền hạn và trách nhiệm phải rõ ràng, giúp nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN. Việc có nhiều cấp cùng có quyền quyết định, sẽ dẫn đến các xung đột về quyền hạn, trách nhiệm. Điều này cản trở việc đưa ra các quyết định nhanh chóng, kịp thời, cản trở tiến độ thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học.

Thứ tư, các định mức chi phải được xây dựng dựa trên các đặc thù của hoạt động KH&CN.

Theo đó, các định mức chi tiêu phải phản ánh được sự khác nhau. Bởi vì, nếu các định mức chi tiêu không phản ánh được hết đặc thù của các hoạt động KH&CN khác nhau, sẽ trở thành vật cản cho việc tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học.

Để đáp ứng được yêu cầu này, cần có sự phân cấp tới các hội đồng chuyên ngành trong việc xây dựng các định mức chi tiêu cho các chuyên ngành khoa học khác nhau, trong đó có các chuyên ngành thuộc KHXH.

Thứ năm, các định mức chi phải thường xuyên được điều chỉnh theo sát với thị trường và điều kiện kinh tế - xã hội.

Việc xây dựng các định mức chi tiêu theo thị trường sẽ tạo điều kiện cho việc lập dự toán kinh phí và quản lý chi tiêu cho hoạt động nghiên cứu khoa học, làm tăng hiệu quả đầu tư cho KHXH. Thực tế cho thấy, mối quan hệ chặt chẽ giữa chi phí cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và những biến động về kinh tế, xã hội hay những tiến bộ về khoa học, công nghệ.

Đơn cử như khi tỷ giá hối đoái hay lạm phát có sự biến động thì giá cả của các thiết bị, máy móc theo đó cũng thay đổi. Chính vì vậy, tốc độ thay đổi các điều kiện về kinh tế - xã hội cũng như công nghệ càng lớn, yêu cầu điều chỉnh các định mức chi càng trở nên cấp thiết.

Định hướng đổi mới quản lý tài chính trong hoạt động khoa học xã hội

Căn cứ vào Chiến lược phát triển KH&CN đến năm 2020, và thực tiễn phát triển KHCN tại Việt Nam nghiên cứu đưa ra một số giải pháp đổi mới quản lý tài chính trong hoạt động KHXH như sau:

Thứ nhất, cần đa dạng hóa các nguồn lực tài chính trong việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu KHXH.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và là một xu thế tất yếu, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra càng cho thấy vai trò quan trọng của kinh tế tri thức, đóng góp của KHXH vào sự ổn định và phát triển về kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia ngày càng được khẳng định. Vì vậy, đầu tư cho KHXH cũng cần phải được chú trọng một cách tương xứng.

Trong khi nguồn lực ngân sách nhà nước còn hạn chế, nhu cầu cần thiết để đầu tư cho phát triển của KHXH rất lớn. Việc thu hút thêm các nguồn vốn khác ngoài ngân sách nhà nước cần được đẩy mạnh và xem như là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động KHXH tại Việt Nam hiện nay.

Để chính sách đầu tư tài chính cho KHXH được phát huy, phải có cơ chế khuyến khích sự tham gia cũng như phải xác định được các thành quả từ các kết quả nghiên cứu.

Thứ hai, đa dạng hóa các hình thức đầu tư cho các lĩnh vực nghiên cứu KHXH. 

Trước tiên, cần xác định rõ đặc thù của từng lĩnh vực KHXH để có cơ chế và hình thức đầu tư thích hợp. Với lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, do việc đánh giá, xác định giá trị của các thành quả nghiên cứu rất khó đo lường, đồng thời các rủi ro trong nghiên cứu cũng rất lớn, nên hình thức đầu tư có thể là đầu tư toàn bộ kinh phí nghiên cứu thường xuyên và giao nhiều quyền tự chủ cho các nhà khoa học. Việc đặt niềm tin vào các nhà khoa học còn có tác dụng khuyến khích sức sáng tạo của họ. 

Thứ ba, xây dựng chiến lược đầu tư cho KHXH có trọng tâm, trọng điểm trong từng lĩnh vực, thời kỳ một cách rõ ràng.

Trong xã hội hiện đại, khi mà quy mô cũng như tần suất của các tương tác xã hội luôn ở mức cao, việc duy trì sự phát triển và ổn định của mỗi quốc gia nói riêng và toàn thế giới nói chung đòi hỏi phải có một kiến thức sâu rộng về tất cả các lĩnh vực của KHXH. Do đó, việc đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu KHXH phải mang tính toàn diện, không được ưu tiên quá mức cho một chuyên ngành lĩnh vực nào đó.

Đầu tư toàn diện không có nghĩa là tất cả các chuyên ngành thuộc KHXH đều phải được đầu tư như nhau. Trong từng giai đoạn khác nhau, mỗi quốc gia đều có những chính sách đầu tư ưu tiên, trọng tâm cho một số lĩnh vực nhất định và chủ yếu phụ thuộc vào định hướng phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Như vậy, việc đầu tư cho KHXH cần thiết phải tuân theo những ưu tiên trong hệ thống mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.

Đối với những nước kém phát triển, do nhu cầu về vật chất thường có tính áp đảo, nên có thể một số ngành KHXH như kinh tế học, luật học… sẽ được đầu tư nhiều hơn. Tuy nhiên, để đảm bảo cho sự phát triển bền vững, chính sách đầu tư cho KHXH cần phải chú trọng cả những ngành khác.

Kinh nghiệm phát triển của nhiều quốc gia cho thấy, nếu một đất nước quá chú trọng đến các ngành phục vụ cho việc sản xuất vật chất, bỏ qua hoặc không chú ý đến các ngành khác thì rất nhiều các vấn đề về xã hội nảy sinh và hệ quả của nó thường có tác động rất lớn đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.

Thứ tư, đảm bảo tính hiệu quả của các khoản đầu tư cho KHXH.

Các hoạt động trong nghiên cứu KH&CN nói chung và KHXH nói riêng, về bản chất là các hoạt động đầu tư. Quan điểm xuyên suốt quá trình xây dựng cơ chế quản lý tài chính đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học là phải đảm bảo tính hiệu quả của các khoản đầu tư này.

Mặc dù vậy, giữa những người làm công tác quản lý tài chính và những người làm công tác nghiên cứu khoa học vẫn còn tồn tại những bất đồng về quan điểm trong việc đưa ra các cách thức đảm bảo tính hiệu quả các khoản chi cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, nhất là trong hoạt động KHXH - lĩnh vực nghiên cứu thường khó cân đong, đo đếm.

Theo quan điểm của những người làm công tác quản lý tài chính, hiệu quả đầu tư thường đồng nghĩa với việc các khoản chi được sử dụng đúng mục đích và tiết kiệm, hay nói cách khác là kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học phải được kiểm soát sao cho không bị thất thoát, lãng phí.

Do vậy, các cơ chế quản lý tài chính thường được thiết kế để phục vụ cho mục đích tăng cường khả năng kiểm soát của các nhà quản lý tài chính.

Các xu hướng chính trong việc thiết kế các quy định về quản lý tài chính đối với hoạt động nghiên cứu khoa học thường là chia nhỏ các hạng mục chi thật cụ thể (để dễ kiểm soát), các định mức chi đưa ra thường ở mức thấp (để tránh lãng phí), dự toán kinh phí được yêu cầu phải xây dựng chi tiết ngay từ đầu và kinh phí không được chuyển giữa các hạng mục chi, các khoản chi thường được yêu cầu phải có hóa đơn, chứng từ để chứng minh…

Trong khi, theo quan điểm của các nhà khoa học, những người sử dụng kinh phí nghiên cứu khoa học, hiệu quả của các khoản đầu tư cho khoa học đồng nghĩa với việc các khoản đầu tư đó phải cho ra đời các sản phẩm tốt nhất.

Để đạt được điều này đòi hỏi kinh phí phải được phân bổ hợp lý cho các hoạt động khác nhau trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, mỗi công trình nghiên cứu khoa học lại có những mục tiêu khác nhau, phương pháp nghiên cứu khác nhau, yêu cầu khác nhau về cơ cấu các nguồn lực cần thiết (thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu, nhân lực…) và đòi hỏi các cách thức phân bổ nguồn lực tài chính khác nhau.

Như vậy, mỗi công trình nghiên cứu khoa học, để đạt được kết quả tốt cần một cách thức chi tiêu tài chính riêng mà các quy định cứng nhắc có thể không phù hợp. Chính vì vậy, để khoản đầu tư vừa đạt hiệu quả về mặt quản lý song vẫn tạo điều kiện cho nhà khoa học phát huy được tính sáng tạo trong nghiên cứu thì rất cần có những cơ chế chính sách phù hợp.

Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các quốc gia, phát triển của mỗi quốc gia dựa vào KH&CN thì đòi hỏi các quốc gia cần xây dựng Chiến lược phát triển KH&CN phù hợp với trình độ và điều kiện phát triển của mình.

Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến phát triển KH&CN, coi KH&CN là quốc sách hàng đầu trong phát triển đất nước, trong đó ghi nhận những đóng góp của KHXH trong phát triển đất nước.

Để cụ thể hóa quan điểm chủ trương, đường lối về chính sách phát triển của KH&CN cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, rất cần những định hướng mang tính chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực theo từng giai đoạn cụ thể thông qua việc đổi mới về cơ chế quản lý, đặc biệt là cơ chế quản lý tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức KH&CN.           

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 20- NQ/TW ngày 01/11/2012 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về phát triển Khoa học và Công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;

2. Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển Khoa học và Công nghệ giai đoạn 2011- 2020;

3. Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013;

4. Lê Đình Tiến (2011), Đề tài cấp nhà nước: Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khoa học xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.ax