Yêu cầu tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước

Cổ phần hóa DNNN đã được triển khai từng bước vững chắc, hầu hết DNNN sau khi cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả hơn với các chỉ tiêu về tài chính như doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, vốn điều lệ đều tăng hơn so với trước khi chuyển đổi. Tuy nhiên, việc sắp xếp và cổ phần hóa DNNN còn chậm; Việc phân định chức năng quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu nhà nước còn chưa rõ; cơ chế quản lý, giám sát của chủ sở hữu còn nhiều tồn tại. Cơ cấu ngành, lĩnh vực chưa hợp lý, dàn trải, đầu tư ra ngoài ngành kém hiệu quả; có tình trạng một số DN gây lãng phí và thất thoát vốn và tài sản nhà nước. Năng lực quản trị DN của nhiều DNNN vẫn còn hạn chế, chậm đổi mới và chưa vận dụng đầy đủ những nguyên tắc quản trị DN theo thông lệ quốc tế.

Trước thực trạng đó, thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Kết luận số 50-KL/TW ngày 29/10/2012 của Ban chấp hành Trung ương (Khóa XI), trong thời gian qua Chính phủ đã chỉ đạo tập trung tái cơ cấu DNNN với nhiệm vụ bao trùm là hoàn thiện thể chế, thực hiện tái cơ cấu, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hóa, đổi mới quản trị DN. Ngày 17/7/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 929/2012/QĐ-TTg về phê duyệt “Đề án tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011-2015”.

Đề án tái cơ cấu DNNN đã xác định tập trung vào 02 mục tiêu chính là: (i) DNNN có cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. (ii) Nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đối với DN kinh doanh; hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh đối với DN hoạt động công ích.

Hệ thống thể chế, cơ chế thúc đẩy quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước

Một là, tổng kết Luật DN năm 2005, xây dựng, bổ sung, hoàn thiện thể chế để quản lý có hiệu quả DNNN và để DN hoạt động trong môi trường pháp lý chung, cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế khác. Cụ thể là quy định về cơ chế đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước vào DN, quản lý tài chính đối với DN và cơ chế phân phối lợi nhuận trong DN theo cơ chế thị trường; có chế độ công bố, minh bạch báo cáo tài chính, thông tin tài chính, kinh doanh, điều hành tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; tăng cường trách nhiệm giải trình của Hội đồng thành viên và Ban điều hành; Hoàn thiện mô hình hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) và Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC) nhằm tăng cường hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại DN cũng như hỗ trợ cho quá trình cổ phần hóa DNNN; Có Nghị định riêng về điều lệ tổ chức hoạt động cho từng tập đoàn kinh tế và một số tổng công ty lớn; Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý tiền lương, tiền thưởng để DN thực sự chủ động trong trả lương, trả thưởng gắn với năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh; Bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, DN, người lao động; thu hút lao động có trình độ cao vào làm việc...

Hai là, sửa đổi, bổ sung hệ thống cơ chế thúc đẩy tái cơ cấu DNNN như các quy định về cổ phần hóa, bán, giao, giải thể, phá sản DN.... Tập trung tháo gỡ cho được khó khăn, vướng mắc hiện tại, nhất là về định giá DN, xử lý tài chính, công nợ, đất đai, chế độ đối với người lao động... và ngăn ngừa thất thoát tài sản trong quá trình cổ phần hóa; Phát triển thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán, mua bán nợ để thúc đẩy cổ phần hóa, tạo điều kiện cho DN tiếp cận và huy động vốn phục vụ tái cơ cấu.

Ba là, hoàn thiện thể chế, cơ chế quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN. Thực hiện phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và vốn nhà nước đầu tư vào DN. Trong đó, tập trung làm rõ quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ quản lý ngành - cấp trên trực tiếp chủ sở hữu tại tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Nội vụ, Lao động - Thương binh và Xã hội và Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị - là chủ sở hữu trực tiếp tại tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trong việc tổ chức, hoạt động, giám sát, kiểm tra, thanh tra thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển; quản lý, sử dụng, bảo toàn, phát triển vốn, đánh giá cán bộ quản lý và hiệu quả hoạt động của DNNN. Ban hành cơ chế giám sát, kiểm tra, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức, cá nhân thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước. Xây dựng cơ chế lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ phù hợp, thuê Tổng giám đốc, giám đốc điều hành, thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên.

Áp dụng chế độ quản trị tiên tiến; Thực hiện chế độ kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả và minh bạch, công khai trong hoạt động của DNNN trên cơ sở mở rộng diện niêm yết trên thị trường chứng khoán; Đặt DNNN vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các DN thuộc các thành phần kinh tế khác.

Cùng với hệ thống cơ chế chính sách trên, Thủ tướng Chính phủ cũng giao các bộ, ngành, địa phương phải tập trung tổ chức rà soát phân loại DN để quyết định tỷ lệ tham gia vốn của Nhà nước; Điều chỉnh cơ cấu DNNN, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, cung cấp hàng hoá dịch vụ công thiết yếu, công nghiệp nền tảng, các ngành, lĩnh vực có công nghệ cao, sức lan tỏa lớn; Tiếp tục sắp xếp, cổ phần hóa DN theo các phương án đã được phê duyệt; Thực hiện thoái vốn nhà nước ở những công ty cổ phần mà Nhà nước không cần chi phối, yêu cầu đến năm 2015 thoái hết vốn trong các ngành nghề không phải là ngành nghề kinh doanh chính;

Thực hiện phê duyệt đề án tái cơ cấu cụ thể của từng tập đoàn, tổng công ty nhà nước; Tổ chức lại các DNNN theo các loại hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phù hợp; Áp dụng chế độ quản trị tiên tiến; Thực hiện chế độ kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả và minh bạch, công khai trong hoạt động của DNNN trên cơ sở mở rộng diện niêm yết trên thị trường chứng khoán; Đặt DNNN vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các DN thuộc các thành phần kinh tế khác; Thực hiện cơ chế đặt hàng của Nhà nước và hạch toán theo cơ chế thị trường đối với DN trong việc thực hiện chức năng hỗ trợ điều tiết vĩ mô và thực hiện an sinh xã hội.

Tính đến thời điểm hiện nay, trong quá trình thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, hệ thống cơ chế chính sách đối với DNNN đã được sửa đổi, bổ sung khá đầy đủ, đồng bộ để đảm bảo quá trình tái cơ cấu DNNN đạt được mục tiêu đề ra. Từ năm 2011 đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 26 Nghị định, 11 Quyết định, Chỉ thị liên quan đến: cổ phần hóa DNNN; phân công, phân cấp thực hiện các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước; thành lập mới, tổ chức lại, giải thể DN; đầu tư vốn nhà nước và quản lý tài chính đối với DN; đánh giá hiệu quả hoạt động, giám sát và công khai tài chính của DN; nhiệm vụ sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu; quản lý tiền lương, tiền thưởng đối với người lao động và cán bộ chủ chốt của DN; quản lý nợ của DN; quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển DN; Quy chế hoạt động của kiểm soát viên Công ty TNHH MTV do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; quy định về điều lệ tổ chức và hoạt động làm cơ sở pháp lý tổ chức thực hiện tái cơ cấu về quản trị các tập đoàn, tổng công ty... Bên cạnh đó, các bộ, ngành có liên quan cũng đều đã ban hành các thông tư hướng dẫn quá trình triển khai thực hiện các văn bản pháp luật của Chính phủ nói trên.

Những kết quả đạt được

Thứ nhất, đã phân định rõ hơn về quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với DNNN, bao gồm các chủ thể là Chính phủ/Thủ tướng Chính phủ, Bộ quản lý ngành, UBND cấp tỉnh; Tách biệt chức năng quản lý hành chính nhà nước và chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước tại DN; bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng đại diện chủ sở hữu đối với DNNN (Nghị định số 99/2012/NĐ-CP).

Thứ hai, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của DN (Nghị định số 61/2013/NĐ-CP, Nghị định số 71/2013/NĐ-CP, Nghị định số 206/2013/NĐ-CP).

Thứ ba, có chế tài đồng bộ để buộc các DNNN phải thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ trong việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản để đầu tư sản xuất kinh doanh (Nghị định số 71/2013/NĐ-CP).

Thứ tư, đã quy định rõ ràng lương, thưởng của viên chức quản lý DN (Nghị định số 50/2013/NĐ-CP, Nghị định số 51/2013/NĐ-CP).

Thứ năm, đã xác định được lộ trình và đề ra các giải pháp thực hiện tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước (Quyết định 929/QĐ-TTg, Chỉ thị số 11/CT-TTg và các Nghị định quy định về điều lệ tổ chức và hoạt động làm cơ sở pháp lý tổ chức thực hiện tái cơ cấu về quản trị một số tập đoàn, tổng công ty).

Thứ sáu, đã quy định rõ ràng và bổ sung các giải pháp khắc phục bất cập trong các hình thức sắp xếp, tái cơ cấu DNNN (Nghị định số 189/2013/NĐ-CP, Nghị định số 172/2013/NĐ-CP).

Cùng với hệ thống cơ chế đã ban hành, Thủ tướng Chính phủ đã hoàn thành phê duyệt các Đề án sắp xếp, đổi mới DNNN giai đoạn 2011-2015 của các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Theo các Đề án này, đến năm 2015, cổ phần hóa 531 DN; sáp nhập, hợp nhất 25 DN; giải thể, phá sản 16 DN và giao bán 10 DN. Tiếp theo đó, Thủ tướng đã phê duyệt Đề án tái cơ cấu 17 tập đoàn kinh tế, tổng công ty thuộc thẩm quyền, cổ phần hóa 19 tổng công ty nhà nước. Các Bộ, ngành, địa phương đã phê duyệt 46 Đề án tái cơ cấu của các tổng công ty trực thuộc. Từ năm 2011 đến hết năm 2013, cả nước đã sắp xếp được 180 DN, trong đó cổ phần hóa 99 DN nâng tổng số DN cổ phần hóa từ trước đến nay lên 4.065 DN (năm 2011 cổ phần hóa được 12 DN, năm 2012 được 13 DN, năm 2013 được 74 DN). Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã thoái được 4.164 tỷ đồng trên tổng số 21.797 tỷ đồng đầu tư ra ngoài lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh chính, đạt 19%, bảo toàn được vốn, theo đúng các quy định hiện hành.

Hoàn thiện chính sách cho giai đoạn mới

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý doanh nghiệp nhà nước

Một là, đổi mới cơ chế quản lý nhà nước đối với DNNN: (i) Thực hiện phân định rạch ròi chức năng quản lý nhà nước và chức năng thực hiện quyền sở hữu. Từ đó hoàn thiện cơ chế phân cấp thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước theo nguyên tắc có cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát, tổng hợp tình hình hoạt động, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước; phân tích, đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN và việc chấp hành quy định pháp luật trong quản lý, điều hành DN của cán bộ quản lý DNNN; thực hiện đầy đủ quản lý DNNN theo nguyên tắc cơ chế thị trường để tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các khu vực DN; (ii) Ban hành Luật Đầu tư và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào DN tạo cơ sở pháp lý cần thiết điều chỉnh bằng luật đối với các hoạt động đầu tư vốn của Nhà nước, trong đó xác định rõ vốn nhà nước đầu tư trực tiếp vào DN và việc quản lý giám sát nguồn vốn này từ các cơ quan đại diện chủ sở hữu; đối với việc đầu tư và quản lý phần vốn ở các DN có vốn Nhà nước góp xuống các DN khác (DN cấp II) sẽ do các DN này thực hiện và không xác định là vốn nhà nước đầu tư xuống.

Từ năm 2011 đến hết năm 2013, cả nước đã sắp xếp được 180 DN, trong đó cổ phần hóa 99 DN nâng tổng số DN cổ phần hóa từ trước đến nay lên 4.065 DN (năm 2011 cổ phần hóa được 12 DN, năm 2012 được 13 DN, năm 2013 được 74 DN). Đến năm 2015, cổ phần hóa 531 DN; sáp nhập, hợp nhất 25 DN; giải thể, phá sản 16 DN và giao bán 10 DN.

Hai là, tăng cường hoạt động giám sát: (i) Có cơ chế làm rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được giao thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu; (ii) Hình thành cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước; (iii) Hoàn thiện cơ chế quản lý giám sát đối với DNNN trên cơ sở hoạt động kinh tế và thực hiện nhiệm vụ chính trị xã hội; (iv) Tăng cường vai trò của các trung tâm giao dịch chứng khoán trong việc giám sát và thúc đẩy quản trị công ty của DNNN; (vi) Ban hành quy chế kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; (vii) Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và minh bạch, công khai thông tin hoạt động của DNNN. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước để vừa đảm bảo sự chặt chẽ trong thực thi pháp luật vừa đảm bảo cho DN hoạt động không bị xáo trộn.

Ba là, hoàn thiện cơ chế tài chính đối với các tổ chức thực hiện cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích để đảm bảo cho người lao động trong các DN này có mức thu nhập hợp lý, DN có lãi nhằm thu hút DN thuộc các thành phần kinh tế tham gia; Thực hiện rộng rãi chế độ đấu thầu sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích.

Bốn là, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý tiền lương, tiền thưởng trong DNNN để thực sự tạo quyền chủ động cho các DNNN trong trả lương, thưởng gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, DN, người lao động, tạo điều kiện thu hút lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật và đạo đức nghề nghiệp cao.

Đẩy mạnh sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Thứ nhất, sửa đổi bổ sung Quyết định số 14/2011/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 4/3/2011 về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN để hoàn thiện quy định tiêu chí phân loại DNNN theo ngành nghề, lĩnh vực phù hợp với Luật DN và định hướng phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn tới.

Quy định về tiêu chí, danh mục phân loại trong Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg không còn phù hợp, cần phải được hoàn thiện theo hướng đẩy mạnh đa dạng hóa sở hữu và phù hợp với định hướng giải pháp của Đề án tái cơ cấu. Tuy nhiên, để phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn, từng thời kỳ với mục đích cuối cùng là sử dụng vốn nhà nước một cách có hiệu quả, các tiêu chí, danh mục phân loại DNNN cần được xây dựng dựa trên quan điểm, mục tiêu về vai trò của DNNN trong nền kinh tế quốc dân.

Thứ hai, tập trung đẩy mạnh thực hiện phương án sắp xếp, cổ phần hóa giai đoạn 2012 – 2015 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tổ chức rà soát và triển khai sắp xếp DNNN theo ngành, lĩnh vực không phân biệt cấp, cơ quan quản lý, trước mắt thực hiện đối với ngành công nghiệp, thương mại, giao thông, xây dựng.

Thứ ba, đẩy nhanh xử lý các vướng mắc liên quan đến tiến trình CPH, tách bạch DN thực hiện nhiệm vụ công ích và sản xuất kinh doanh để đẩy nhanh tiến trình CPH các DNNN cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích trong thời gian tới; ban hành cơ chế thực hiện cổ phần hóa các đơn vị sự nghiệp có thu của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình xã hội hóa các hoạt động dịch vụ này.

Thứ tư, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về giao, bán, chuyển giao DN phù hợp với Luật DN để tạo cơ sở pháp lý cho các bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước thực hiện sắp xếp lại các DN 100% vốn nhà nước theo phương án đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

Thứ năm, phát triển thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán và thị trường mua bán nợ thúc đẩy cổ phần hóa DNNN, tạo điều kiện cho DN tiếp cận và huy động vốn từ thị trường tài chính phục vụ cho tái cơ cấu vốn của DN, đồng thời có cơ chế thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán.

Đẩy mạnh triển khai và thực hiện có hiệu quả đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước

Một là, để quá trình tái cơ cấu DNNN đạt được hiệu quả, bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế, chính sách cần xác định một số ưu tiên, trọng tâm, trọng điểm. Trong đó, cần xác định một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước để thực hiện tái cơ cấu một cách quyết liệt triệt để. Bao gồm: Đẩy nhanh tiến độ thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính, tổ chức sắp xếp và tái cấu trúc phù hợp với năng lực quản lý, giám sát và quản trị nâng cao năng lực quản trị DNNN theo hướng phù hợp với các nguyên tắc, thông lệ của thế giới. Đồng thời, gắn trách nhiệm của người đứng đầu với kết quả tổ chức thực hiện Đề án tái cơ cấu DN, nhằm đảm bảo hiệu quả và tiến độ.

Hai là, đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu DNNN theo ngành, lĩnh vực kinh doanh, không phân biệt cấp, cơ quan quan quản lý nhằm:

- Tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các khu vực DN nhằm tạo áp lực làm cho các DNNN nâng cao hiệu quả, phát triển bền vững;

- Minh bạch nghĩa vụ và trách nhiệm thực hiện có liên quan đến dịch vụ công của DNNN, công bố công khai và chi phí liên quan cần được chi trả minh bạch;

- Bãi bỏ hoặc giảm thiểu việc Chính phủ bảo lĩnh tín dụng hoặc cho vay chỉ định đối với DNNN, tạo áp lực buộc tất cả DNNN phải huy động vốn qua cơ chế thị trường. Chính phủ chỉ hỗ trợ tín dụng cho những DNNN hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng mà không thu hút được các thành phần kinh tế khác đầu tư hoặc thực hiện nhiệm vụ chính trị do Chính phủ giao; xóa bỏ ưu đãi cho DNNN trong tiếp cận các nguồn lực kinh tế, tiếp cận thông tin, đảm bảo cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác;

Ba là, hoàn thiện cơ chế phân bổ và sử dụng hiệu quả đối với các khoản thu từ quá trình tái cơ cấu DNNN theo hướng ngoài việc phục vụ quá trình tái cơ cấu DNNN trong xử lý tồn tại tài chính, chi phí chuyển đổi, hỗ trợ lao động dôi dư... còn được sử dụng để đầu tư vào những công trình, dự án trọng điểm thuộc lĩnh vực an sinh xã hội (đầu tư bệnh viện, trường học...).

Bốn là, hoàn thiện công tác và quy trình nhân sự trong DNNN, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo DN, người đại diện vốn, kiểm soát viên.

Hoàn thiện khung pháp lý, đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước

ThS. NGUYỄN DUY LONG

(Tài chính) Hơn 20 năm qua, quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) ở Việt Nam được thực hiện một cách nhất quán, sâu rộng và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Bài viết đánh giá khái quát về hệ thống khuôn khổ thể chế cho việc sắp xếp và cổ phần hóa DNNN, cơ chế quản lý của Nhà nước đối với các DN này, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới, hoàn thiện công tác này trong thời gian tới.

Xem thêm

Video nổi bật