Tự chủ tài chính nghiên cứu khoa học tại các trường cao đẳng, đại học

ThS. Nguyễn Huy Sự

Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, hoạt động của các trường cao đẳng, đại học đã có nhiều chuyển biến tích cực, trong đó phải kể đến hoạt động nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, vấn đề tự chủ tài chính trong nghiên cứu khoa học tại các trường cao đẳng, đại học vẫn còn gặp nhiều khó khăn do chịu sự tác động của cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet.
Ảnh minh họa. Nguồn: internet.

Cơ sở lý luận về tự chủ tài chính trong nghiên cứu khoa học

Trong điều kiện phân định rõ các đơn vị hành chính với đơn vị sự nghiệp, Nhà nước đã ban hành Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước và Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập (trong đó có các trường cao đẳng (CĐ), Đại học (ĐH). Mục đích của tự chủ tài chính, tự chịu trách nhiệm trong các trường CĐ, ĐH là nhằm tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính, thu hút được nguồn nội lực đáng kể cho phát triển nói chung.

Sau gần 11 năm triển khai thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ cho thấy, việc mở rộng trao quyền tự chủ cho đơn vị sự nghiệp góp phần nâng cao số lượng và chất lượng các đề tài khoa học; nâng cao hiệu quả giáo dục đào tạo trong các nhà trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 thay thế Nghị định 43/2006/NĐ-CP. Việc ban hành Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập đã kịp thời đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của hoạt động sự nghiệp công nói chung và ngành giáo dục nói riêng.

Tự chủ tài chính phụ thuộc rất nhiều vào nguồn tài chính được cung cấp và thái độ của nhà tài trợ về việc sử dụng nguồn tài chính đó. Ở hầu hết các nước, nguồn tài chính lớn nhất cho hoạt động của các trường CĐ, ĐH được Chính phủ cấp trực tiếp hay gián tiếp. Các nguồn tài chính này dùng cho xây dựng trường sở, mua sắm thiết bị, chi phí thường xuyên và nghiên cứu khoa học (NCKH). Ngoài ra, học phí, hợp đồng cung cấp dịch vụ, các khoản vay và thu phí khác cũng là nguồn thu lớn của các trường.

Nguồn tài chính cho giáo dục đại học xét ở cấp độ vĩ mô, giúp các trường trong việc chi tiêu nội bộ như: Chi thường xuyên cho hoạt động đào tạo (chi lương cho cán bộ, giảng viên, chi phí quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ, chi cung ứng dịch vụ, chi đầu tư phát triển); Chi mua sắm và sửa chữa thiết bị: mua sắm, sửa chữa các thiết bị, phòng học, duy tu bảo dưỡng…; Chi cho các hoạt động NCKH, tổ chức hội thảo; Chi đào tạo liên kết, (ở một số trường có các hoạt động liên kết với các trường CĐ, ĐH khác trong cả nước hoạt một số các trường quốc tế).

Thực trạng nghiên cứu khoa học tại các trường đại học và những vấn đề đặt ra

Để khoa học công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, đòi hỏi các nhà NCKH, nhất là giảng viên tại các trường CĐ, ĐH phải là lực lượng nòng cốt trong việc nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu đó vào mọi lĩnh vực của đời sống.

Nhìn chung, hoạt động NCKH của đội ngũ giảng viên trường CĐ, ĐH đã có những đóng góp đáng kể vào thành tích chung của các nhà trường như: hệ thống giáo trình, đề cương bài giảng, tài liệu tham khảo khá đầy đủ và có chất lượng tốt phục vụ công tác giáo dục, đào tạo.

Nội dung các chương trình đào tạo được xây dựng mới và liên tục được điều chỉnh bổ sung và ngày càng hoàn thiện; các phương pháp, hình thức tổ chức dạy và học không ngừng được cải tiến theo hướng hiện đại hiệu quả; công tác quản lý của nhà trường được đổi mới, có tính chuyên nghiệp cao hơn.

Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của một số đề tài các cấp đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng áp dụng trong giảng dạy và học tập phù hợp với các chuyên ngành đào tạo; giúp đội ngũ khoa học của các trường nhanh chóng trưởng thành về nhiều mặt…

Tuy nhiên, hoạt động NCKH vẫn tồn tại những khó khăn như: Quy mô đào tạo phát triển nhanh, giờ giảng nhiều, giảng viên chưa dành thời gian cho hoạt động NCKH; Tài chính cho NCKH tăng lên theo từng năm nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra.

 Số lượng giảng viên tham gia (và được tham gia) NCKH không nhiều, một tỷ lệ nhỏ trong số đó chưa thật nhiệt tình và say mê nghiên cứu, vì thế, nhiều công trình nghiên cứu vẫn còn nghèo về chất lượng, hàm lượng khoa học thấp.

 Tình trạng đối phó trong NCKH cũng đang diễn ra. Tư tưởng đối phó “làm cho xong”, cũng như nhiều khi mục đích đặt ra nặng về lợi ích kinh tế nên việc “cắt - dán” hay “xào - nấu lại” vẫn diễn ra trong hoạt động NCKH.

Bên cạnh đó, trình độ ngoại ngữ của cán bộ khoa học còn chưa cao. Điều này ảnh hưởng nhất định tới sự tiếp cận các thành tựu khoa học mới trên thế giới cũng như giao lưu, quảng bá học thuật.

Nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế trên là do hầu hết các giảng viên có khả năng NCKH đều là những người đã có thâm niên công tác, có học hàm, học vị và cả thành tích nghiên cứu cũng như giảng dạy, tuy nhiên họ lại thường là lãnh đạo, quản lý nên thời gian dành cho NCKH thường không nhiều.

Định mức giảng dạy của các giảng viên quá cao. Theo Quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, giảng viên có chức danh càng cao thì số giờ giảng dạy càng nhiều (Giáo sư, giảng viên cao cấp = 360 giờ; Phó giáo sư, giảng viên chính = 320 giờ ; Giảng viên = 280 giờ). Đây đã là số giờ chuẩn tương đối nhiều, song trên thực tế ở một số chuyên ngành số giờ mà giảng viên thực dạy còn lớn hơn, có nhiều trường hợp gấp đôi số định mức. Với số giờ giảng nhiều như vậy, giảng viên không còn thời gian và sức lực cho NCKH.

Để NCKH có chất lượng, đòi hỏi có đội ngũ giảng viên có học vị cao, trình độ ngoại ngữ và khả năng tin học thành thạo. Tuy nhiên, đội ngũ giảng viên như thế vẫn còn rất mỏng.

Trong khi đó, thù lao được trả lại chưa tương xứng. Trước đây, kinh phí cấp cho đề tài NCKH cấp cơ sở rất thấp, khoảng  từ 15 - 20 triệu/đề tài, bài báo đăng trên tạp chí của nhà trường và ngành được tính khoảng từ 50.000đ – 70.000đ/trang.

Hiện nay, tất cả bài báo, tài liệu tham khảo... đều được quy về tiết chuẩn NCKH không được trính ra tiền hoặc cách tính khác... vì thế chưa thu hút được giảng viên tham gia NCKH và chất lượng công trình không cao.

Trước những thực trạng trên, đang đặt ra một số vấn đề cần giải quyết nhằm nâng cao chất lượng NCKH:

Thứ nhất, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các nhà quản lý khoa học; năng lực NCKH của giảng viên; trách nhiệm của hội đồng khoa học đối với các đề tài nghiên cứu.

Thứ hai, xem xét lại thực trạng giảng viên ở một số trường CĐ, ĐH có định mức giờ giảng vượt quy định, có những trường hợp vượt tới 150% đến 200% định mức giờ giảng. Điều này dẫn đến việc giảng viên không có thời gian để NCKH, nâng cao trình độ nghiệp vụ, đổi mới nội dung bài giảng, phương pháp... ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.

Thứ ba, khi được tự chủ về tài chính thì kinh phí cho các công trình NCKH phải được tăng lên đảm bảo đủ chi phí cho việc nghiên cứu sâu, chất lượng; bù đắp cho sự hao mòn chất xám của đội ngũ giảng viên tham gia NCKH.

Thứ tư, công trình NCKH phải đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng phục vụ giảng dạy và đào tạo của nhà trường; các công trình NCKH phải đảm bảo có tính lý luận và thực tiễn cao.

Giải pháp tăng tính tự chủ trong nghiên cứu khoa học tại trường cao đẳng, đại học

Nâng cao hiệu quả NCKH trong điều kiện tự chủ tài chính là vấn đề cấp thiết hiện nay. Thực trạng NCKH đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Do vậy, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để bức tranh khoa học của các trường CĐ, ĐH sắc nét hơn; những kết quả NCKH áp dụng hiệu quả và thiết thực cho quá trình giáo dục và đào tạo.

Một là, tiếp tục bám sát chức năng nhiệm vụ của nhà trường, phục vụ hiệu quả mục tiêu đào tạo: Hoàn thiện hệ thống mục tiêu đào tạo của từng chuyên ngành trong nhà trường làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống chương trình NCKH theo các chuyên ngành; Đẩy mạnh biên soạn và xã hội hoá giáo trình, đề cương bài giảng, tài liệu tham khảo các môn học, tăng cường nghiên cứu để xây dựng, bổ sung, đổi mới các hình thức tổ chức và các phương pháp giảng dạy và học tập.

Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào tạo theo xu hướng giảm số tiết giảng dạy lý thuyết chung, tăng thời gian xử lý bài tập tình huống, giờ học thực hành...

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học trên cơ sở một quy hoạch hợp lý: vừa chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học đầu đàn, vừa quan tâm đến bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ khoa học trẻ, có phẩm chất chính trị tốt, năng lực chuyên môn giỏi, có khả năng hội nhập cả trong phạm vi quốc gia lẫn quốc tế.

Tạo điều kiện cho giảng viên tham gia NCKH có nhiều cơ hội tiếp xúc, tham gia những hoạt động nghiên cứu, các hội thảo ở các địa phương trong nước. Trên cơ sở đó, thu hút đông đảo cán bộ, giảng viên, sinh viên tham gia NCKH các cấp.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý khoa học theo phương châm “nghiêm túc nhưng không gò bó, thông thoáng nhưng không buông lỏng”, nhằm phát huy cao nhất tinh thần chủ động, sáng tạo và ý thức trách nhiệm của cá nhân và tập thể khoa học. Đồng thời, phải tạo mối quan hệ thống nhất giữa cơ chế quản lý khoa học và cơ chế quản lý đào tạo, cố gắng từng bước tạo thế cân bằng giữa hoạt động NCKH và hoạt động đào tạo.

Cần tổ chức, đánh giá nghiệm thu đề tài nghiêm túc, thẳng thắn, không nể nang, ca ngợi đúng và nâng cao tính phê phán nhằm giúp các chủ đề tài rút kinh nghiệm thực sự, từ đó có cách thức chỉnh lý, bổ sung và hoàn thiện với chất lượng cao nhất có thể.

Bốn là, có cơ chế để quy đổi giờ NCKH thành giờ giảng với một tỷ lệ nhất định, để giảng viên có thể yên tâm hơn khi nghiên cứu mà không lo không đủ giờ giảng theo định mức.

Năm là, thực hiện quyền tự chủ trong hoạt động NCKH. Các trường cần cân đối đầu tư kinh phí thích đáng cho hoạt động này để khuyến khích, động viên cán bộ nghiên cứu, giảng viên và sinh viên tích cực tham gia và nâng cao chất lượng NCKH và giảng dạy.

Để tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính, các trường cần thực hiện: Phân cấp cho các đơn vị trong trường: mở rộng nguồn thu và khoán chi; hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ; quy định trách nhiệm giải trình về tài chính giữa các cấp trong trường; tổ chức hoạt động kiểm soát nội bộ và công khai tài chính; đào tạo nâng cao năng lực quản lý tài chính cho các đơn vị trong trường.

Sáu là, đầu tư hiệu quả nhằm hiện đại hóa trung tâm thông tin tư liệu, các cơ sở thực hành, phòng thực nghiệm... Tạo điều kiện tối đa cho giảng viên, sinh viên cập nhật kiến thức, nâng cao hiệu quả việc tìm kiếm tham khảo tài liệu, thử nghiệm, ứng dụng kiến thức được đào tạo.