Xu hướng “thanh lọc” rõ nét

ThS. Bùi Anh Tuấn

(Tài chính) Xu hướng “thanh lọc” được thể hiện rõ nét nhất trong năm 2013, khi số lượng doanh nghiệp (DN) đăng ký mới lại tăng cao đạt 76.955, tăng 10,1% so với năm 2012, nhưng tổng số vốn đăng ký chỉ đạt 398.681 tỷ đồng, giảm 14,7% so với 2012 và giảm sâu so với 513.700 tỷ đồng của năm 2011.

Xu hướng “thanh lọc” rõ nét
Xu hướng “thanh lọc” được thể hiện rõ nét nhất trong năm 2013. Nguồn: internet

Năm 2013: Biến động lớn về tình hình DN

Sau hơn một thập kỷ phát triển mạnh mẽ về số lượng kể từ khi Luật DN 1999 có hiệu lực, xu hướng giảm sút về số lượng DN thành lập mới bắt đầu xuất hiện từ năm 2011 với số lượng đăng ký mới là 77.548, giảm 7,2% so với năm 2010 và đến năm 2012, số lượng này còn 69.874, tiếp tục giảm 9,9%.

Tuy nhiên, xu hướng “thanh lọc” được thể hiện rõ nét nhất trong năm 2013, khi số lượng DN đăng ký mới lại tăng cao đạt 76.955, tăng 10,1% so với năm 2012, nhưng tổng số vốn đăng ký chỉ đạt 398.681 tỷ đồng, giảm 14,7% so với 2012 và giảm sâu so với 513.700 tỷ đồng của năm 2011.

Đồng thời, số lượng DN giải thể, ngừng hoạt động trong năm 2013 tiếp tục tăng so với 2012. Cụ thể, trong năm 2013 có 60.737 DN phải giải thể, ngừng hoạt động, tăng 11,9% so với 2012 và tăng 12,5% so với 2011.

Như vậy, số DN gặp khó khăn phải rút lui khỏi thị trường ngày càng lớn cho thấy những thách thức của nền kinh tế đang dần loại khỏi thị trường các DN yếu kém, không đủ sức tồn tại, hoặc không kịp thay đổi để thích nghi với điều kiện mới. Điều này được thể hiện rõ nét qua cơ cấu ngành, nghề kinh doanh của DN trong thời gian gần đây.

Trong năm 2013, một số ngành, nghề đang diễn ra quá trình tái cơ cấu mạnh mẽ, thể hiện qua sự biến động cùng tăng trong việc gia nhập đồng thời với rút lui của các DN trên thị trường so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể: Vận tải kho bãi thành lập mới tăng 6,7%, dừng hoạt động tăng 11,2%; Công nghiệp chế biến, chế tạo: tăng 7,3%, tăng 3,7%; Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô xe máy: tăng 23,9%, tăng 10,1%; Nghệ thuật, vui chơi và giải trí: tăng 27,8%, tăng 82,9% ; Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội: tăng 35%, tăng 55,6%.

Ngược lại với các ngành có xu hướng tốt, vẫn còn một số ngành còn thể hiện rõ tình trạng khó khăn so với cùng kỳ năm trước, với số DN đăng ký thành lập mới giảm trong khi DN gặp khó khăn phải giải thể hoặc tạm ngừng hoạt động tăng, như: Dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác: thành lập mới giảm 2,8%, dừng hoạt động tăng 16,2%; Xây dựng: giảm 3,7%, tăng 12%; Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm: giảm 5,4%, tăng 58,6%; Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản: giảm 14,4%, giảm 0,8%.

Có thể thấy, về tổng thể, năm 2013 là năm của những biến động lớn đối với DN Việt Nam, khi cùng lúc số lượng DN giải thể và đăng ký mới đều tăng cao. Năm qua, DN Việt Nam vẫn đang đối mặt với những khó khăn, thách thức của thị trường và đang tìm hướng đi để tiếp tục tồn tại và phát triển.

Một trong số những số liệu đáng khích lệ của năm 2013 là số lượng DN gặp khó khăn rơi vào tình trạng ngừng hoạt động nay quay trở lại hoạt động là 14.402.

Ở một góc khác, khi đánh giá tình hình đăng ký DN trong 10 năm trở lại đây, số DN đăng ký mới dù đã chững lại và có xu hướng giảm, nhưng vẫn duy trì ở mức cao. Theo số liệu thống kê từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký DN (Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh - Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong giai đoạn 2008-2013 đã có 457.400 DN được thành lập mới, tăng 30% so với số lượng DN của cả giai đoạn từ 1991-2007 (Biểu đồ 1).

Biểu đồ 1: Số lượng DN đăng ký mới giai đoạn 1991-1999 và những năm từ 2000-2013

Đơn vị: Nghìn DN

Xu hướng “thanh lọc” rõ nét - Ảnh 1

Nguồn: Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Cùng với sự gia tăng về số lượng, quy mô vốn đăng ký của DN cũng tăng trưởng nhanh chóng. Vốn đăng ký bình quân một DN tăng từ 962 triệu đồng/DN vào năm 2000 lên 3,13 tỷ đồng/DN vào năm 2006 (tăng khoảng 3,2 lần) và đạt 5,86 tỷ đồng năm 2010.

Trong đó, các năm  2007 và 2008 có quy mô vốn trên mỗi DN đạt cao nhất trong cả giai đoạn với số vốn tương ứng là 8,06 tỷ đồng/DN và 8,72 tỷ đồng/DN. Tính chung cả giai đoạn 2000-2010, quy mô vốn đăng ký trung bình một DN tăng gấp 6 lần.

Trong các năm 2011-2013, số lượng DN đăng ký thành lập mới tuy giảm do các tác động của tình hình kinh tế vĩ mô, nhưng số vốn đăng ký trung bình mỗi DN giai đoạn này vẫn đạt mức 6,13 tỷ đồng/DN cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân vẫn duy trì sự hấp dẫn đối với nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.

Riêng trong năm 2013, quy mô vốn mỗi DN đăng ký mới là 5,07 tỷ đồng, giảm 24,2% so với năm 2012. Quy mô vốn năm 2013 đã giảm đáng kể so với các năm gần đây.

Song, nhìn vào số lượng DN đăng ký thành lập mới tăng 10,1% so với cùng kỳ, có thể thấy rằng, trong thành lập DN, các doanh nhân đang ngày càng thận trọng hơn với mỗi đồng vốn đưa vào thị trường. Các mô hình kinh doanh nhỏ lẻ, yêu cầu ít vốn đầu tư, luồng tiền luân chuyển linh hoạt sẽ là lựa chọn tối ưu cho các DN tại thời điểm hiện nay.

Các DN Việt Nam đang thực sự chuyển mình, đổi mới chiến lược kinh doanh và vẫn sẵn sàng chấp nhận thách thức để tồn tại và chờ đợi cơ hội phát triển.

Giải pháp nào cho thời gian tới?

Tại Việt Nam, gói kích cầu được thực hiện trong năm 2009 trên cơ sở sử dụng cả chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đã có tác động tích cực tới tổng cầu của nền kinh tế và đã cung cấp cho khối DN tư nhân gần 270.000 tỷ đồng tín dụng phục vụ sản xuất, kinh doanh.

Nhờ đó, nhiều DN đang gặp khó khăn vào cuối thời điểm 2008, đầu 2009 đã có thể trụ lại và có những chuyển biến hết sức tích cực. Số lượng DN đăng ký thành lập cả năm 2009 đạt 84.300 DN, tăng 29% so với năm 2008 và là mức cao nhất trong nhiều năm qua.

Tuy nhiên, sau 5 năm nhìn lại, hạn chế của gói kích cầu năm 2009 chính là nguy cơ lạm dụng và sử dụng vốn vay không hiệu quả hoặc sai mục đích. Nền kinh tế nước ta sau 5 năm thực hiện gói kích cầu vẫn còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố tài nguyên và yếu tố vốn. Năng suất lao động chưa thực sự được cải thiện khiến cho sức cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng chưa cao.

Những bất cập và yếu kém của thị trường đang đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải cùng nghiên cứu, đổi mới thể chế kinh tế để có những phát triển phù hợp với thực tiễn và đảm bảo tính bền vững lâu dài. Một số những chính sách cần tiếp tục thực hiện trong thời gian tới để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho DN là:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý nhằm đơn giản hóa thủ tục gia nhập thị trường, tạo điều kiện tối đa cho DN khi thực hiện các hoạt động đầu tư, kinh doanh.

Thời gian qua, công tác cải cách đăng ký kinh doanh đã góp phần đáng kể trong việc cắt giảm thời gian và chi phí gia nhập thị trường của DN. Kể từ năm 2010, việc đăng ký DN qua Hệ thống Thông tin đăng ký DN quốc gia đã đảm bảo thời gian thành lập DN là 5 ngày làm việc.

Cho đến cuối 2013, trên 70% số hồ sơ đăng ký DN đã được thực hiện trong thời gian 1-2 ngày qua hệ thống. Đây là những nỗ lực đáng kể trong việc quy chuẩn hóa và tin học hóa hoàn toàn nghiệp vụ đăng ký kinh doanh trên phạm vi toàn quốc.

Tiếp tục những kết quả tích cực của công tác cải cách đăng ký kinh doanh, Chính phủ đã yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ thực hiện rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho DN trong việc thành lập, giải thể, thực hiện các dự án đầu tư và cụ thể hóa các giải pháp chính sách cho DN trong quá trình sửa đổi Luật DN, Luật Đầu tư trong năm 2014.

Thứ hai, tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh trong đó đặc biệt quan tâm, tạo điều kiện cho DN, hộ sản xuất tiếp cận vốn tín dụng với lãi suất cho vay phù hợp. Theo đó, nguồn vốn tín dụng sẽ tiếp tục được ưu tiên cho nông nghiệp nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, DN nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, ứng dụng công nghệ cao. Trong năm tới, Chính phủ dự kiến đưa Quỹ Phát triển DN nhỏ và vừa vào hoạt động. Hình thành mạng lưới hệ thống thông tin hỗ trợ, khuyến khích DN nhỏ và vừa tham gia phát triển công nghiệp hỗ trợ, các chương trình liên kết ngành, vùng, tham gia vào chuỗi giá trị, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các chủ thể tham gia.

Cùng với đó, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích DN đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, phát triển nông nghiệp, nông thôn, cơ giới hóa trong nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao động. Bên cạnh đó, DN, hộ kinh doanh trong một số ngành, nghề kinh doanh đặc thù sẽ tiếp tục được miễn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập DN trong thời gian tới.

Thứ ba, phát triển thị trường nhằm tăng tính cạnh tranh, minh bạch hóa thông tin và kích thích tiêu dùng đối với các mặt hàng có nguồn gốc trong nước. Theo đó, Chính phủ sẽ tiếp tục thực hiện các giải pháp để tăng cường xuất khẩu,  kiểm soát nhập khẩu đối với các mặt hàng không khuyến khích, các mặt hàng trong nước đã sản xuất được. Công tác xúc tiến thương mại tiếp tục được thực hiện với sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trung ương và địa phương.

Đồng thời, việc tăng cường công tác dự báo thị trường, cung cấp thông tin, các quy chuẩn về tiêu chuẩn kỹ thuật cho các DN xuất khẩu Việt Nam cũng sẽ được quan tâm đẩy mạnh nhằm nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu và bảo vệ DN Việt Nam trước những cáo buộc quốc tế về quy chuẩn và giá thành sản phẩm.

Dự kiến trong quý II/2014, Chính phủ sẽ công bố Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cần được kiểm tra đảm bảo chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật, an toàn thực phẩm trước khi thông quan. Bên cạnh đó, kế hoạch phát triển mạng lưới phân phối trên thị trường nội địa, nhất là khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa tiếp tục được triển khai nhằm hạn chế hàng lậu, hàng giả, mở rộng thị trường tiêu thụ cho hàng Việt Nam.

Điều đáng lưu ý là để chính sách đi vào thực tiễn và phát huy những kết quả như mong đợi, cần có sự tham gia tích cực của cộng đồng DN. Với vai trò là một chủ thể quan trọng của nền kinh tế, mỗi DN cần phải có những bước đi chủ động và linh hoạt để đối phó với những thách thức ngày càng lớn của thị trường. Các DN, đặc biệt là DN thuộc khu vực kinh tế tư nhân cần xây dựng chiến lược kinh doanh với tầm nhìn dài hạn hơn, cần khai thác sức mạnh nội tại và khả năng đổi mới không ngừng để thích nghi. Để đối phó với những nguy cơ khủng hoảng, DN cần cân nhắc các giải pháp sau đây:

- Tiếp tục xác định lại định hướng kinh doanh của mình trong điều kiện mới nhằm tìm kiếm và xác lập thị trường ổn định, chọn lựa được sản phẩm mũi nhọn của mình để có thể đầu tư hiệu quả.

- Chủ động tìm kiếm các giải pháp để nâng cao năng suất lao động, như đưa khoa học, công nghệ thành động lực chủ yếu trong tăng trưởng.

- Chủ động khai thác, tiếp cận các nguồn thông tin thị trường trong nước cũng như quốc tế, đầu tư nhiều hơn cho nghiên cứu thị trường và nhu cầu tiêu dùng, phát triển các hoạt động kinh doanh, sản xuất tạo giá trị gia tăng.

- Luôn chuẩn bị những chiến lược, giải pháp để duy trì kinh doanh trong trung hạn và dài hạn. Có lộ trình quy chuẩn để đối phó và kiểm soát với các hình thức khủng hoảng xảy ra với DN.