Bảo lãnh ngân hàng: Giấy tờ có giá hay vô giá? (Kỳ 1)

Luật sư Trần Minh Hải

Những vụ tranh chấp về bảo lãnh liên tục được đưa tin, và phần "thắng" thường nằm về phía ngân hàng. Hai từ "bảo lãnh" đang nhạt dần chức năng vốn có.

Bảo lãnh ngân hàng: Giấy tờ có giá hay vô giá? (Kỳ 1)
Ảnh minh họa.Nguồn:Internet

“Bảo bối” cho giao dịch kinh doanh

Bảo lãnh không phải là hoạt động mới mẻ, đây là 1 trong 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy định trong Bộ luật Dân sự. Theo đó, để bảo đảm quyền lợi của bên có quyền trong một giao dịch (như trong giao dịch mua bán, bên bán là bên có quyền nhận tiền), thì có một bên thứ ba đứng ra cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (như bên mua hàng trong giao dịch mua bán) khi có sự vi phạm nghĩa vụ xảy ra.

Biện pháp này xuất hiện từ rất lâu, tồn tại trong cuộc sống hàng ngày với khái niệm “lãnh nợ”. Đặc tính của bảo lãnh thường là bên thứ ba đứng ra đảm bảo dựa trên quan hệ thân quen (bảo lãnh cho người thân, bạn bè…), ít khi nhận được quyền lợi gì từ bên được bảo lãnh, nhưng đến khi phải thực hiện nghĩa vụ thì sẽ bị thiệt hại về vật chất, dẫn đến người bảo lãnh thường thoái thác trách nhiệm. Chính vì đặc tính này, việc đứng ra bảo lãnh cho người khác, cũng như việc nhận bảo lãnh của bên thứ ba trong các giao dịch giữa tổ chức, cá nhân thông thường là không nhiều.

Tuy nhiên, đến khi ngân hàng coi bảo lãnh như là một nghiệp vụ kinh doanh, thì đã tạo ra nhiều sự khác biệt. Về nguyên tắc, ngân hàng vẫn là bên thứ ba trong giao dịch mua - bán giữa hai bên, nhưng đây là hoạt động kinh doanh nhà nghề, có thu phí. Thêm nữa, khi ngân hàng phải thanh toán thay khách hàng, thì sẽ buộc khách hàng nhận nợ bắt buộc và khi đó, nghĩa vụ thanh toán trở thành khoản vay, ngân hàng có quyền thu nợ và được hưởng lãi suất từ khoản vay đó.

Một khác biệt nữa làm nên đặc thù của bảo lãnh ngân hàng nằm ở chính kỹ năng hoạt động của ngân hàng. Khi bảo lãnh trở thành nghiệp vụ ngân hàng, cả một hệ thống quy trình, con người, công nghệ của ngân hàng được vận dụng để thẩm định các điều kiện an toàn tài chính của bên được bảo lãnh. Điều này khiến cho giao dịch trở nên an toàn hơn, vì rủi ro đã được chuyển từ bên có quyền về ngân hàng. Qua đó, ngân hàng đã góp phần quan trọng thúc đẩy các giao dịch kinh doanh thương mại an toàn, hiệu quả. Tất cả điều đó tạo nên dịch vụ uy tín khác biệt, đồng thời khẳng định đẳng cấp của từng ngân hàng.

Luật sư Trương Thanh Đức:

Việc yêu cầu 3 cán bộ ngân hàng ký vào một cam kết bảo lãnh có lẽ nhằm “chuộc” lại uy tín của ngành ngân hàng, nhưng thực ra đã “bán rẻ” uy tín của hệ thống ngân hàng. Hãy so sánh sự “tương phản” trong một bản hợp đồng cấp bảo lãnh, bên DN chỉ cần 1 người ký, còn bên ngân hàng thì cần phải 3 người ký. Thế thì chẳng hóa ra là sự thừa nhận ngược đời: uy tín của DN gấp 3 lần uy tín của ngân hàng?!


Bảo lãnh ngân hàng là bảo bối của doanh nghiệp khi tham gia giao dịch. Khi nhận ô tô làm tài sản bảo đảm, doanh nghiệp phải đối mặt với nguy cơ giảm giá trị, bị mất; nhận nhà đất thì khó bán, khó di dời chủ nhà… Nhưng nếu nhận bảo lãnh của ngân hàng thì khi xảy ra vi phạm về nghĩa vụ thanh toán của đối tác, dòng tiền sẽ chảy về tài khoản doanh nghiệp (nhận bảo lãnh) ngay lập tức. Do đó, doanh nghiệp rất tin cậy bảo lãnh ngân hàng và trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp lấy đó làm điều kiện tiên quyết để thực hiện giao dịch.

Không chỉ doanh nghiệp, mà ngay cả ngân hàng cũng coi bảo lãnh ngân hàng là một biện pháp bảo đảm nhất khi cấp tín dụng. Nhiều ngân hàng đánh giá bảo lãnh của ngân hàng khác có giá trị cao hơn nhiều loại bảo đảm thông thường bằng nhà đất, phương tiện vận tải..., từ đó xác định mức cho vay dựa trên giá trị tài sản bảo đảm thường cao hơn so với việc cho vay và nhận tài sản bảo đảm khác.

Vì tiền đánh đổi uy tín?

Dù nghiệp vụ bảo lãnh được phía doanh nghiệp tin cậy và ngân hàng an tâm khi cung cấp, nhưng thực tế đã không tránh khỏi việc xảy ra nhiều tranh chấp giữa các bên tham gia nghiệp vụ này. Gần đây nhất, SeABank đã từ chối nghĩa vụ bảo lãnh cho Vinaconex - Viettel, do hợp đồng bảo lãnh được ký bởi một phó tổng giám đốc, vượt khung quy định và không có trong hệ thống của Ngân hàng. Trước đó, liên quan việc phát hành bảo lãnh cho Công ty Tân Hồng Hà, Agribank đã đưa vụ việc ra cơ quan công an và Giám đốc Chi nhánh Hồng Hà của ngân hàng này đã bị khởi tố để điều tra.

Ngày càng nhiều vụ việc ngân hàng từ chối thanh toán bảo lãnh với các lý do như: bảo lãnh phát hành sai quy trình, có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự, bên nhận bảo lãnh không chứng minh được vi phạm... Điều này khiến doanh nghiệp dần mất niềm tin với bảo lãnh ngân hàng, làm ảnh hưởng đến nghiệp vụ cấp bảo lãnh của toàn bộ hệ thống ngân hàng.

Xưa nay, khi nhận bảo lãnh của ngân hàng, doanh nghiệp chỉ nhìn vào uy tín và năng lực tài chính của ngân hàng ẩn sau con dấu, chức danh của người ký phát hành bảo lãnh. doanh nghiệp không có nghĩa vụ và không có khả năng biết được trong vài nghìn nhân sự, vài trăm chi nhánh của ngân hàng, thì ai là người có quyền được ký bảo lãnh và được quyền cấp bảo lãnh đến mức nào. Đây là sự đánh đố doanh nghiệp, nhất là khi các ngân hàng luôn coi phân cấp nội bộ là một công nghệ quản trị và thường xuyên thay đổi.

Qua cách hành xử của một số ngân hàng trong các vụ việc tranh chấp bảo lãnh gần đây, có thể thấy, ngân hàng luôn từ chối trách nhiệm khi bảo lãnh bị ký sai thẩm quyền và khi đó, người ký sai thẩm quyền sẽ bị xử lý trách nhiệm. Và thế là hết, ngân hàng dứt bỏ trách nhiệm với thư bảo lãnh đã phát hành.

Ở đây, chúng ta phải nhìn nhận có hai dạng quan hệ trách nhiệm cần xử lý, thứ nhất là quan hệ trách nhiệm giữa doanh nghiệp (bên nhận bảo lãnh) và ngân hàng; thứ hai là quan hệ trách nhiệm giữa ngân hàng và cán bộ làm sai của ngân hàng. Về logic và đạo đức kinh doanh, ngân hàng phải chịu trách nhiệm với doanh nghiệp, dù cán bộ ngân hàng có phát hành bảo lãnh sai thẩm quyền. Bởi thực tế, khi người ta nhận bảo lãnh từ ngân hàng cũng là nhận cam kết với khả năng tài chính và uy tín của ngân hàng. Ngân hàng không phải là một doanh nghiệp thông thường, mà là một định chế tài chính, là doanh nghiệp được vận hành bài bản nhất trong các doanh nghiệp. Sự bài bản ấy là yếu tố quản trị tốt về con người, về công nghệ, về uy tín, về hình ảnh. Việc ngân hàng đưa các lý do từ chối thanh toán bảo lãnh bằng việc đổ lỗi cho con người, công nghệ, vô hình trung, ngân hàng đã tự bán rẻ uy tín, hình ảnh của mình.

Giấy tờ có giá hay vô giá trị?

Ngày 3/10/2012, Ngân hàng nhà nước đã ban hành Thông tư 28/TT-NHNN, trong đó thư bảo lãnh được quản lý như một loại giấy tờ có giá. Thông tư quy định, cam kết bảo lãnh và hợp đồng cấp bảo lãnh của ngân hàng phải có đủ 3 chữ ký của ngân hàng gồm: người đại diện theo pháp luật, người quản lý rủi ro hoạt động bảo lãnh và người thẩm định khoản bảo lãnh. Ngân hàng sẽ tự thiết lập cơ chế ủy quyền, nhưng trên các văn bản bảo lãnh, ngân hàng nhất thiết phải có tối thiểu 3 dạng chữ ký này của ngân hàng.

Nghe thì có vẻ chặt chẽ, nhưng thực tế lại giống như việc đánh đố với doanh nghiệp. Nếu như trước đây, doanh nghiệp phải tự tìm hiểu ông giám đốc chi nhánh ngân hàng ký cam kết bảo lãnh đã có đủ thẩm quyền chưa, thì nay còn phải tìm hiểu thêm cả hai cán bộ ngân hàng xem họ có thẩm quyền quản lý rủi ro và thẩm định bảo lãnh của ngân hàng hay không. Một việc đã khó càng khó thêm và nếu không thẩm định kỹ càng, cam kết bảo lãnh - một “giấy tờ có giá” dễ thành vô giá trị.