Quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn Nhà nước thực hiện thế nào?

PV.

Giải đáp vướng mắc của Ban Quản lý các dự án đầu tư và xây dựng huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi về những nội dung liên quan đến về quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn Nhà nước, Sở Xây dựng tỉnh Quảng Ngãi có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Theo phản ánh của Ban Quản lý các dự án đầu tư và xây dựng huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, Ban Quản lý đã lập, trình thẩm định hồ sơ quyết toán dự án hoàn thành công trình xây dựng thuộc nguồn vốn Nhà nước. Công trình có gói thầu thi công xây dựng theo hợp đồng trọn gói. Nhà thầu thi công đúng thiết kế được duyệt nhưng khối lượng thi công khác khối lượng hợp đồng. Trên cơ sở khối lượng thực tế, xác định lại giá trị thực tế gói thầu thi công thì xảy ra 2 trường hợp và Ban Quản lý lập hồ sơ quyết toán cho từng trường hợp, cụ thể:

Trường hợp giá trị thực tế thi công lớn hơn giá trị hợp đồng trọn gói đã ký (đã tính cả khối lượng tăng và giảm), Ban Quản lý làm việc với nhà thầu thi công và thống nhất lập hồ sơ thanh, quyết toán công trình theo giá trị hợp đồng trọn gói.

Trường hợp giá trị thực tế thi công nhỏ hơn giá trị hợp đồng trọn gói đã ký (có khối lượng tăng, có khối lượng giảm), Ban Quản lý làm việc với nhà thầu thi công, nhà thầu tư vấn thiết kế để xác định trách nhiệm bồi thường của tư vấn thiết kế và thống nhất việc thanh quyết toán theo giá trị công trình.

Tuy nhiên, Phòng Tài chính huyện tính lại giá trị quyết toán công trình và chỉ chấp nhận phần giá trị khối lượng giảm, không chấp nhận phần giá trị khối lượng tăng. Cách xử lý này của Phòng Tài chính không được nhà thầu chấp nhận.

Ban Quản lý các dự án đầu tư và xây dựng huyện Bình Sơn đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, hướng dẫn tháo gỡ vướng mắc nêu trên.

Về vấn đề này, Sở Xây dựng tỉnh Quảng Ngãi hướng dẫn như sau:

Việc thanh toán, quyết toán và điều chỉnh giá hợp đồng xây dựng phải thực hiện theo loại hợp đồng, giá hợp đồng và các thỏa thuận trong hợp đồng mà các bên đã ký kết và phù hợp với quy định của pháp luật tương ứng với từng thời kỳ.

Khi áp dụng giá hợp đồng trọn gói thì giá gói thầu, giá hợp đồng phải tính toán đầy đủ các yếu tổ rủi ro liên quan đến giá hợp đồng như rủi ro về khối lượng, trượt giá trong thời gian thực hiện hợp đồng và mỗi bên phải tự chịu trách nhiệm đối với các rủi ro của mình.

Theo quy định tại Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015 của Chính phủ quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng thì hợp đồng trọn gói được hiểu là trọn gói trong phạm vi công việc và các thỏa thuận đã được các bên thống nhất trong hợp đồng.

Khi nhà thầu thực hiện thi công theo đúng thiết kế được duyệt và nội dung đã ký kết giữa các bên trong hợp đồng thì chủ đầu tư thanh toán, quyết toán đúng bằng giá trị của hợp đồng đã ký. Việc giảm trừ thanh toán chỉ thực hiện đối với trường hợp cắt giảm hạng mục, công việc so với thiết kế theo yêu cầu của chủ đầu tư.

Điểm d, Khoản 1, Điều 62 Luật Đấu thầu quy định, “Đối với gói thầu xây lắp, trong quá trình thương thảo, hoàn thiện hợp đồng, các bên liên quan cần rà soát lại bảng khối lượng công việc theo thiết kế được duyệt; nếu nhà thầu hoặc bên mời thầu phát hiện bảng số lượng, khối lượng công việc chưa chính xác so với thiết kế, bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư xem xét, quyết định việc điều chỉnh khối lượng công việc để bảo đảm phù hợp với thiết kế”.

Theo quy định nêu trên, đối với hợp đồng trọn gói, việc các bên rà soát khối lượng công việc ngoài các thỏa thuận mà các bên đã ký kết trong hợp đồng trong thời gian quyết toán là không phù hợp với quy định của Luật Đấu thầu.

Quy định thẩm tra quyết toán hợp đồng trọn gói

Mặt khác, việc thẩm tra quyết toán đối với hợp đồng trọn gói được quy định tại Điểm b, Khoản 3, Điều 15 Thông tư số 09/2016/TT-BTC ngày 18/1/2016 của Bộ Tài chính quy định về quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn Nhà nước và quy định cụ thể tại Điểm 2.3, Điều 3; Điều 16 Quyết định số 04/2014/QĐ-BTC ngày 2/1/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành quy trình thẩm tra quyết toán dự án hoàn thành đối với các dự án sử dụng vốn Nhà nước.

Theo đó, thẩm tra đối với gói thầu hợp đồng theo hình thức “hợp đồng trọn gói” thực hiện như sau:

“Đối chiếu nội dung công việc, khối lượng thực hiện trong bảng tính giá trị đề nghị quyết toán A-B với biên bản nghiệm thu khối lượng công việc hoàn thành và các yêu cầu của hợp đồng để xác định khối lượng công việc hoàn thành đã được nghiệm thu đúng quy định.

Đối chiếu đơn giá trong bảng tính giá trị đề nghị quyết toán A-B với đơn giá ghi trong bảng tính giá trị hợp đồng; khi nhà thầu thực hiện đầy đủ các yêu cầu, nội dung công việc, đúng khối lượng công việc hoàn thành và đơn giá ghi trong hợp đồng, bảng tính giá hợp đồng; thì giá trị quyết toán đúng bằng giá trọn gói của hợp đồng đã ký. Không chiết tính lại khối lượng cũng như đơn giá chi tiết đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quyết định trúng thầu”.

Về tính pháp lý của hợp đồng xây dựng, tại Điểm c, Khoản 3, Điều 6 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP quy định, “các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan kiểm soát, cấp phát, cho vay vốn, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và các cơ quan khác có liên quan phải căn cứ vào nội dung hợp đồng xây dựng có hiệu lực để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định, không được xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng”.

Theo các quy định và hướng dẫn nêu trên, trong quá trình quyết toán, thẩm tra quyết toán, các bên liên quan chiết tính lại khối lượng, đơn giá chi tiết trong hợp đồng trọn gói ngoài các thỏa thuận trong hợp đồng đã ký kết là không phù hợp với quy định hiện hành.