Bóng ma bảo hộ đang đe dọa thương mại thế giới
Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy hẳn đã cảm nhận rõ sự đe dọa này khi gửi bức thư hối thúc các nước Ảrập nối lại vòng đàm phán Doha tháng 1 vừa rồi.
Ông khẩn thiết tuyên bố “thương mại quốc tế có vai trò vô cùng quan trọng đối với các nền kinh tế do đó Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng rất quan trọng đối với các nước Ảrập.
Đây chỉ là một trong rất nhiều lời kêu gọi khác mà ông Pascal Lamy đã đưa ra trước và sau đó, kêu gọi nối lại vòng đàm phán Doha, vốn đã lại rơi vào bế tắc từ hồi tháng 7/2008 .
Cùng với khủng hoảng kinh tế, những đòi hỏi bảo hộ nền sản xuất nội địa có nguy cơ lan rộng.
Mỹ là một quốc gia điển hình cho sự quay trở lại của chủ nghĩa bảo hộ. Mới đây Hạ viện Mỹ đã chấp thuận kế hoạch cứu kinh tế của Tổng thống Obama với tổng trị giá 819 tỷ USD kèm theo điều kiện "bảo hộ" ngành sản xuất thép trong nước: bản dự thảo yêu cầu tất cả các dự án cơ sở hạ tầng dùng tiền từ kế hoạch phải sử dụng sắt và thép sản xuất tại Mỹ.
Các nhà sản xuất sắt thép, những công nhân trong ngành này của Mỹ sẽ rất vui mừng và hạnh phúc khi doanh thu và lợi nhuận của họ sẽ được tăng lên nhờ vào chính sách bảo hộ này.
Dưới sức ép của những chủ trang trại nuôi tôm nội địa Mỹ, những con tôm này để vào được thị trường Mỹ sẽ phải chịu thêm một khoản thuế chống bán phá giá. Nhưng gánh chịu hậu quả nặng nề nhất của loại thuế này có thể lại là những công nhân chế biến. |
Tại diễn đàn kinh tế thế giới tổ chức tại Davos, lãnh đạo các quốc gia lớn trên thế giới đều nhấn mạnh cam kết mở cửa.
"Chính sách bảo hộ thương mại chỉ khiến cuộc khủng hoảng hiện nay càng kéo dài và tồi tệ thêm".
Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo.
"Khi các nước rơi vào khủng hoảng, phản ứng đầu tiên là phải bảo hộ thương mại. Tuy nhiên, đây là phản ứng hoàn toàn sai lầm".
Bộ trưởng Thương mại Ấn Độ Kamal Nath
|
Tuy nhiên, nỗi ám ảnh và lo sợ sự quay lại của bóng ma bảo hộ không phải là không có cơ sở khi mà ngay cả chính nền kinh tế lớn nhất thế giới, vốn được xem là đầu tàu của tự do hóa thương mại là Hoa Kỳ trong thời kỳ khủng hoảng cũng đang muốn quay trở lại với chủ nghĩa bảo hộ dưới sức ép của các nhóm lợi ích trong nước.
Các nhà kinh tế ủng hộ tự do hóa thương mại cho rằng nếu Mỹ đơn phương áp dụng chủ nghĩa bảo hộ đối với các ngành sản xuất trong nước và các quốc gia khác "trả đũa" lại thì thương mại toàn thế giới sẽ sụp đổ.
Một bóng ma
Năm 1929, khi Mỹ rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử, hai nghị sĩ ủng hộ tư tưởng bảo hộ của Đảng Cộng hòa là Willis Hawley và Reed Smoot đã đề xuất một dự luật nhằm bảo vệ sản xuất trong nước bằng cách nâng thuế nhập khẩu lên một mức cao chưa từng có trong lịch sử kinh tế Mỹ.
Dưới sức ép của những tiếng kêu gào đòi được "bảo vệ công ăn việc làm" của giới lao động trong nước Dự luật bảo hộ thương mại đó đã được Quốc hội thông qua.
Hậu quả là sự thu hẹp của thương mại Thế giới (dĩ nhiên trong đó có cả Hoa Kỳ) khi các quốc gia khác cũng áp dụng các biện pháp "trả đũa" bằng cách nâng cao thuế quan tương tự. Giao dịch thương mại thế giới giảm hai phần ba trong khoảng 1929 – 1934 khi mà các nền kinh tế lớn trên thế giới sử dụng các biện pháp thuế quan để ngăn cản hàng nhập khẩu của các quốc gia khác.
Chủ nghĩa bảo hộ với những biện pháp của chính phủ nhằm bảo vệ các nhà sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh với nước ngoài có một nguồn gốc sâu xa trong lịch sử kinh tế của các quốc gia trên thế giới.
Những người ủng hộ chủ nghĩa bảo hộ cho rằng việc cản trở nhập khẩu từ nước ngoài sẽ khuyến khích người dân tiêu dùng hàng nội địa và qua đó sẽ khuyến khích sản xuất trong nước, giúp nền kinh tế tránh khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế từ bên ngoài.
Tuy nhiên các nhà kinh tế cho rằng chủ nghĩa bảo hộ luôn đi liền với cái giá phải trả rất lớn khi thương mại bị ngưng trệ do các hành động bảo hộ sai lầm đó.
Lịch sử đã ghi nhận lại nhiều hậu quả tai hại cho nền kinh tế do chủ nghĩa bảo hộ. Nửa đầu thế kỷ 19, nước Anh đã áp đặt thuế quan nhập khẩu để "bảo hộ" cho người nông dân và điền chủ Anh trước sự cạnh tranh của hàng ngũ cốc nhập khẩu rất rẻ từ nước ngoài. Song mức thuế quan nhập khẩu đó đã làm tăng giá thực phẩm ở các thành phố ở Anh, buộc tư bản công nghiệp miễn cưỡng phải trả lương cao hơn để công nhân có đủ tiền mua lương thực. Năm 1846, sau một cuộc đấu tranh lâu dài tại Quốc hội, các Đạo luật Bảo hộ sản xuất ngô (Corn Laws) mới bãi bỏ.
Nhìn lại Đại suy thoái kinh tế 1930, các nhà kinh tế cho rằng sai lầm lớn nhất của các nhà hoạch định chính sách trong việc phản ứng với nền kinh tế trong thời kỳ Đại suy thoái là "đóng cửa" thương mại bằng việc sử dụng các rào cản thuế quan và các biện pháp bảo hộ mang tính chất kỹ thuật như yêu cầu các nhà sản xuất trong nước chỉ sử dụng hàng nội địa. Giao dịch thương mại thế giới giảm hai phần ba trong khoảng 1929 – 1934 khi các biện pháp thuế quan để ngăn cản hàng nhập khẩu được áp dụng.
Nếu nguời trồng lúa không mua quần áo của thợ may thì nguời thợ may sẽ không có tiền để tiền để mua vải của thợ dệt và dĩ nhiên bác thợ dệt sẽ không có tiền để mua gạo của nông dân. Tình trạng người dân trong một quốc gia không được tự do giao thương với nhau là hình ảnh của việc "ngăn sông cấm chợ", hậu quả sẽ là người dân sẽ không muốn sản xuất vì không thể bán được hàng.
Điều gì áp dụng với nội thương thì cũng có thể áp dụng đối với ngoại thương. Giả sử như chủ nghĩa bảo hộ thắng thế trên toàn thế giới thì quốc gia A sẽ không sử dụng sắt và thép nhập khẩu từ một nước B và quốc gia B sẽ không có tiền để mua phần mềm được sản xuất từ quốc gia A.
Nếu tất cả các quốc gia trên thế giới đều áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại thì thương mại song phương và đa phương giữa hai quốc gia với nhau hay giữa các quốc với nhau sẽ rơi vào tình trạng thu hẹp, thậm chí đình trệ hoàn toàn. Hậu quả của nó đó là xuất nhập khẩu bị sụp đổ, hàng hóa bị ứ đọng do không bán được, thất nghiệp lan tràn, người tiêu dùng phải mua hàng hóa với giá đắt đỏ.
Nhiều nghiên cứu kinh tế đã chỉ ra rằng mọi biện pháp "ngăn sông cấm chợ" nội thương hay bảo hộ thương mại trong ngoại thương đều dẫn đến hậu quả GDP của toàn thế giới sụt giảm.