Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2015

NGUYỄN NHÂM

(Tài chính) Năm 2014, kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi chậm. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) liên tiếp ba lần hạ dự báo tăng trưởng, cảnh báo nguy cơ tái khủng hoảng, nhất là đối với kinh tế khu vực Eurozone, khiến giới chuyên gia tỏ ra khá thận trọng khi đưa ra những con số dự báo về kinh tế thế giới trong năm 2015. Tuy nhiên, đà phục hồi và những dấu hiệu lạc quan từ Mỹ, với vị trí nền kinh tế lớn nhất thế giới, được xem là động lực phát triển kinh tế thế giới năm 2015.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Kể từ năm 2008, vai trò động lực dẫn dắt kinh tế toàn cầu đã chuyển từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi. Tuy nhiên, những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển, nhất là các nước mới nổi trong nhóm G20, liên tục suy giảm, khiến giới chuyên gia đặt nhiều kỳ vọng vào sự trở lại ngôi vị đầu tàu của nền kinh tế Mỹ.

Giới phân tích nhận định, sự phục hồi của thương mại toàn cầu, các dòng vốn quốc tế lưu chuyển mạnh hơn, lĩnh vực tài khóa thế giới bớt căng thẳng… là những nhân tố tác động tích cực đến đà tăng trưởng của kinh tế thế giới trong năm 2015. IMF dự báo, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2015 sẽ đạt 3,8%, cao hơn đáng kể so với mức 3,3% trong năm 2014.

Tổ chức nghiên cứu toàn cầu về kinh tế và môi trường kinh doanh TCB có trụ sở tại New York (Mỹ) cũng đưa ra dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu đạt 3,4% năm 2015, bình quân giai đoạn 2015 - 2019 đạt khoảng 3% mỗi năm và giảm xuống 2,7% trong giai đoạn 2020 - 2025. Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng, nền kinh tế toàn cầu tiếp tục phục hồi nhưng tốc độ không đồng đều. WB dự báo, tốc độ tăng trưởng toàn cầu đạt mức tăng bình quân 3,3% trong giai đoạn 2015 - 2017.

Tuy nhiên, kinh tế toàn cầu vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, chẳng hạn như những căng thẳng địa - chính trị, nhất là cuộc chiến chống IS ở Trung Đông và cuộc khủng hoảng Ukraine ngày càng phức tạp, nguy cơ suy giảm tăng trưởng tại các nền kinh tế mới nổi và mức độ thay đổi chính sách vĩ mô tại các nước có thu nhập cao… có thể dẫn đến nhiều bất ổn mới đe dọa đến tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới trong năm 2015.

Năm 2015, nền kinh tế Mỹ được dự báo sẽ tăng trưởng khá cao, ở mức 3,1% so với mức tăng 1,9% của năm 2013 và 3,5% năm 2014. Các chuyên gia dự báo nền kinh tế Mỹ sẽ tạo ra hơn 5 triệu việc làm trong hai năm tới, tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm từ mức 5,8% ở thời điểm hiện nay xuống còn 5% vào cuối năm 2016.

Kinh tế Anh cũng có mức tăng trưởng khá ấn tượng, với mức 3% trong năm 2014, cao nhất trong nhóm các nước G7. Bộ trưởng Tài chính Anh George Osborne nhận định, kinh tế Anh đang đi đúng hướng và có xu hướng phát triển bền vững hơn. Mục tiêu của Chính phủ Anh là giảm thâm hụt trong 3 năm 2015 - 2017 từ 75,9 tỷ bảng xuống còn 14,5 tỷ bảng, đạt thặng dư ngân sách 4 tỷ bảng trong năm 2018 và thặng dư 23 tỷ bảng trong năm tài khóa 2019. Văn phòng độc lập chuyên trách về ngân sách (ORB) của Anh dự báo, năm 2015, tỷ lệ lạm phát của Anh là 1,2%, tỷ lệ thất nghiệp giảm còn 5,4% và tăng trưởng GDP đạt 2,4%.

Trong khi đó, các nền kinh tế Đông Á gặp nhiều khó khăn do tốc độ tăng trưởng của một số nền kinh tế lớn trong khu vực đều sụt giảm. Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới là Trung Quốc được dự báo sẽ chỉ tăng trưởng 6,6% trong năm 2015, thấp hơn nhiều so với mức tăng bình quân 9 - 10%/năm của 10 năm trước. Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại là do nhu cầu bên ngoài yếu tác động tiêu cực tới xuất khẩu, trong khi nguồn vốn FDI chảy vào nước này sụt giảm mạnh khiến đầu tư bị hạn chế, thị trường bất động sản suy yếu cộng thêm tình trạng bong bóng tín dụng tăng lên tạo ra nguy cơ rủi ro lớn, áp lực nợ công và nợ xấu trong lĩnh vực ngân hàng khiến doanh thu và tiêu dùng trong nước bị chững lại.

Nhật Bản, nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, do chịu tác động tiêu cực từ chính sách thắt chặt tài khóa (tăng thuế tiêu dùng) khiến GDP tăng trưởng âm trong hai quý liên tiếp, GDP quý III/2014 giảm thêm 0,5% so với quý II và giảm 1,9% so với cùng kỳ năm 2013, đẩy nền kinh tế Nhật Bản rơi vào đợt suy thoái lần thứ tư kể từ năm 2008. Tăng thuế tiêu dùng là một trong những giải pháp trực tiếp làm giảm áp lực nợ công, tuy nhiên giải pháp này có tính hai mặt, trong đó mặt trái là tạo ra nguy cơ triệt tiêu động lực tăng trưởng của chính sách kinh tế Abenomics. Do vậy, giới chuyên gia dự báo năm 2015 kinh tế Nhật Bản sẽ tiếp tục suy thoái với mức tăng trưởng âm từ 0,7% đến 2,5%.

Kinh tế Nga đã có dấu hiệu suy thoái từ cuối năm 2014 do hệ lụy của các lệnh trừng phạt kinh tế mà phương Tây áp đặt liên quan tới cuộc khủng hoảng ở Ukraine. Thứ trưởng Bộ Kinh tế Nga Alexei Vedev nhận định, trong quý I/2015, Nga sẽ rơi vào cuộc suy thoái kinh tế lần đầu tiên kể từ năm 2009. Ông Vedev đưa ra dự báo trong năm 2015, GDP của Nga có thể giảm xuống mức 0,8% (dự báo trước đó là 1,2%); lạm phát ở mức 7,5%; tỷ lệ thất nghiệp tăng lên mức 6,4% và doanh số bán lẻ sẽ suy giảm 3,8%. Đồng rúp đã mất giá gần 40% so với đồng USD tính từ đầu năm 2014 đến nay, xuống mức 53,4 rúp/USD và trở thành một trong những đồng tiền mất giá nhiều nhất trên thế giới. Chính phủ Nga thừa nhận Nga đang tiến tới suy thoái và Ngân hàng Trung ương Nga cho rằng, hệ thống tài chính Nga đang gặp khó khăn do giá dầu giảm. Giá dầu thô, nguồn thu ngoại tệ chủ chốt chiếm 50% ngân sách của Nga, đã giảm xuống gần 60 USD/thùng từ mức hơn 100 USD/thùng trước đó, tiếp tục gây áp lực cho ngân sách quốc gia Nga.

Đà phục hồi tại các nước Eurozone tiếp tục bị suy yếu do lực cầu nội địa và tăng trưởng tín dụng yếu cộng với triển vọng đầu tư ảm đạm. Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) dự báo, tăng trưởng kinh tế của Eurozone chỉ đạt 1% trong năm 2015 và 1,5% năm 2016; lạm phát của Eurozone là 0,7% năm 2015 và 1,3% năm 2016, cách khá xa so với mục tiêu kỳ vọng 2% của ECB.

Ủy ban Kinh tế Mỹ Latinh và Caribbean (ECLAC) dự báo, năm 2015, khu vực này sẽ đạt tăng trưởng trung bình 2,2%, cao gấp đôi so với 1,1% của năm 2014. Trong đó, khu vực Trung Mỹ và các nước Caribbean nói tiếng Tây Ban Nha tăng trưởng 4,1%, các nước Caribbean nói tiếng Anh tăng trưởng 2,2% và khu vực Nam Mỹ tăng 1,8%. Panama sẽ là nước dẫn đầu khu vực với mức tăng GDP năm 2015 đạt 7%, tiếp đến là Bolivia 5,5%, Cộng hòa Dominican và Nicaragua 5%, Colombia 4,3%, Mexico 3,2%, Chile 3%. Brazil, nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới, có thể chỉ đạt tăng trưởng 1,3%, còn Argentina và Venezuela tiếp tục đà suy giảm kinh tế từ năm 2014 và tăng trưởng âm trong năm 2015 do giá dầu giảm sâu dẫn đến khó khăn về tài khóa.

Trong báo cáo thường niên “Triển vọng kinh tế châu Phi”, Ngân hàng Phát triển châu Phi và UNDP dự báo, kinh tế châu Phi sẽ tăng trưởng 5,7% năm 2015, so với 4,8% năm 2014, do được thúc đẩy bởi nhu cầu nội địa, cơ sở hạ tầng, sản xuất và thương mại ngày càng gia tăng trên khắp lục địa. 

Các chuyên gia giải thích về sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi với mức tăng khiêm tốn 5,2% trong năm 2015 là do sự giảm nhiệt của quá trình tăng trưởng nóng và thiếu bền vững trong thời kỳ trước khủng hoảng, chứ không liên quan đến tiềm năng tăng trưởng tại các quốc gia này.

Đối với khu vực ASEAN, IMF đưa ra dự báo tăng trưởng của ASEAN-5 (gồm Việt Nam, Thái Lan, Philippines, Malaysia và Indonesia) sẽ là 5,6% vào năm 2015. IMF cho rằng, tăng trưởng chậm lại tại các quốc gia mới trỗi dậy này do nhu cầu nội địa giảm và đầu tư tăng chậm hơn dự kiến.

 Giới phân tích nhận định, lĩnh vực tài khóa năm 2015 vẫn sẽ căng thẳng. Đây là lý do khiến động thái chính sách tài khóa của các nước từ cuối năm 2014 và sang năm 2015 sẽ hướng tới cải cách tài khóa và ổn định nợ trong trung hạn. IMF dự báo, thâm hụt ngân sách trung bình của thế giới trong năm 2015 sẽ vào khoảng 3% GDP. Trong đó, khu vực các nền kinh tế phát triển đạt 3,6%, Eurozone giảm xuống 2%, Nhật Bản và Mỹ là hai quốc gia có mức thâm hụt ngân sách vẫn ở mức cao, lần lượt được dự báo là 6,4% và 5,6%, tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi là 2,2%.

Theo dự báo của IMF, trong năm 2015, nợ công toàn cầu không có nhiều cải thiện, chiếm khoảng 77,5% GDP. Trong đó, các nền kinh tế phát triển vẫn ở mức rất cao (106,5% GDP), các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển (33% GDP), Mỹ (105,7% GDP), Eurozone (94,5% GDP) và Nhật Bản (245,1% GDP).

Nhận định về sự dịch chuyển dòng vốn quốc tế, các chuyên gia cho rằng điều này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tài chính toàn cầu. UNCTAD dự báo, năm 2015, dòng vốn FDI toàn cầu sẽ tăng trên 1.800 tỷ USD.

Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) dự báo, năm 2015 giao dịch thương mại toàn cầu sẽ tăng 5,3%, trong khi dự báo của WB là 5,1%. Tuy nhiên, căn cứ vào những diễn biến kinh tế thế giới trong quý IV/2014, giới phân tích nhận định, thương mại toàn cầu năm 2015 có thể tăng trưởng ở mức 5,6%.

Về giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt là giá dầu được dự báo sẽ tăng trở lại trong năm 2015, tăng 0,4% so với mức sụt giảm nghiêm trọng vào quý IV/2014 (dưới 70 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ tháng 6/2014).

Tuy nhiên, giới chuyên gia nhận định kinh tế thế giới năm 2015 vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là căng thẳng địa chính trị tại một số quốc gia và khu vực kinh tế có xu hướng gia tăng, rủi ro trên thị trường tài chính quốc tế, tình trạng nợ công chưa được giải quyết triệt để... có thể sẽ có những tác động tiêu cực tới đà phục hồi bền vững của nền kinh tế thế giới.